Theo phân tích của ban soạn thảo, tại điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị định 134/2016/NĐ-CP cũng tương tự như quy định tại khoản 1 Điều 10, phạm vi hàng hoá được miễn thuế XK quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định 134 rộng hơn so với quy định của Luật thuế XK, thuế NK (vì bao gồm bán thành phẩm, máy móc, thiết bị XK để gia công, hàng mẫu, linh kiện, phụ tùng XK để bảo hành) và chưa bao gồm phụ liệu” XK trong định mức được miễn thuế theo quy định tại Nghị định số 69/2019/NĐ-CP. Vì vậy, dự thảo Nghị định sửa đổi được bổ sung theo hướng bổ sung cụm từ phụ liệu; thiết bị, máy móc tạm xuất tái nhập để thực hiện hợp đồng gia công được miễn thuế vào phạm vi hàng hoá được miễn thuế.

Bên cạnh đó, tại điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị định 134 cũng quy định hàng hoá XK để gia công là tài nguyên, khoáng sản, sản phẩm có tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên và hàng hoá XK để gia công thuộc đối tượng chịu thuế XK không được miễn thuế XK.

Tuy nhiên, Luật thuế XK, thuế NK chỉ quy định không miễn thuế XK đối với hàng hoá XK để gia công là tài nguyên, khoáng sản, sản phẩm có tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên nên. Nội dung “không miễn thuế XK đối với hàng hoá XK để gia công thuộc đối tượng chịu thuế XK tại Nghị định số 134/2016/QH13” là hẹp hơn so với quy định của Luật thuế số 107/2016/QH13. Vì vậy, dự thảo Nghị định đã bỏ quy định hàng hoá XK để gia công thuộc đối tượng chịu thuế XK không được miễn thuế để khuyến khích XK.

Tại điểm d khoản 1 Điều 11 Nghị định 134 quy định sản phẩm đặt gia công ở nước ngoài khi NK trở lại Việt Nam được miễn thuế NK đối với trị giá của nguyên liệu, vật tư, linh kiện XK cấu thành sản phẩm gia công và phải chịu thuế đối với phần trị giá còn lại của sản phẩm theo mức thuế suất thuế NK của sản phẩm gia công NK. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ phần trị giá trị còn lại của sản phẩm có bao gồm số thuế XK của nguyên liệu vật tư XK cấu thành sản phẩm gia công NK trở lại hay không.

Vì vậy, dự thảo sửa đổi nội dung tại điểm d khoản 1 Điều 11 theo hướng quy định rõ chỉ tính thuế NK đối với phần trị giá tăng thêm (bao gồm chi phí gia công ở nước ngoài) của sản phẩm theo mức thuế suất thuế NK của sản phẩm gia công NK trở lại.

Tại điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị định 134 quy định trị giá hoặc lượng nguyên liệu, vật tư linh kiện đã XK tương ứng với sản phẩm gia công không NK trở lại phải chịu thuế XK theo mức thuế suất của nguyên liệu, vật tư, linh kiện XK nhưng chưa quy định rõ việc kê khai thuế trong trường hợp này là theo mức thuế suất tại thời điểm nào.

Tại điểm b khoản 2 Điều 11 Nghị định 134 quy định chung khi quyết toán người khai hải quan phải kê khai lượng hàng hoá thực tế sử dụng để sản xuất sản phẩm gia công thực tế NK. Tuy nhiên, pháp luật hải quan hiện hành quy định việc quyết toán hợp đồng gia công XK theo định mức thực tế sản xuất.

Vì vậy, tiếp thu các ý kiến tham gia, khoản Điều 11 được dự thảo Nghị định sửa đổi hoàn thiện theo hướng: Số lượng nguyên liệu, vật tư, linh kiện XK để gia công sản phẩm gia công thực tế NK trở lại được miễn thuế XK theo thoả thuận tại hợp đồng gia công.

Nguồn: Baohaiquan.vn