Trên thực tế, ngành nhựa dù có rất nhiều DN tham gia sản xuất nhưng các cơ sở tái chế nhựa hiện nay chưa phát triển mạnh, bên cạnh một số nhà máy sản xuất quy mô trung bình rải rác ở một vài địa phương, hầu hết các cơ sở đều nhỏ lẻ, công nghệ thô sơ lạc hậu, chủ yếu tập trung tại các làng nghề nên hiệu quả thấp, giá thành rẻ, chất lượng không cao. Ngoài ra, việc sử dụng công nghệ tái chế nhỏ lẻ, công nghệ thô sơ lạc hậu nên hoạt động tái chế nhựa thường gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường không khí, nước và đất.
moi truong thach thuc lon nhat cua nganh nhua viet nam

Đầu tư cho công nghệ hiện đại là giải pháp giúp doanh nghiệp nhựa sản xuất các sản phẩm tốt, phù hợp hơn với sự phát triển của thị trường

Tại hội thảo “Đầu tư xử lý chất thải nhựa ở Việt Nam, cơ hội và thách thức” diễn ra ngày 5/10, ông Võ Tuấn Nhân, Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên & Môi trường- cho biết, kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp môi trường và tiết kiệm năng lượng đến năm 2020 và định hướng tới năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 1292/QĐ-TTg ngày 01/08/2014 của Thủ tướng Chính phủ) đặt mục tiêu xây dựng các nhà máy tái chế chất thải nhựa thành dầu nhiên liệu hoặc các sản phẩm khác.
Cụ thể, Đề án tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi nilon khó phân hủy trong sinh hoạt, cũng xác định phấn đấu tới 2020 thu gom và tái sử dụng 50% túi nilon khó phân hủy trong sinh hoạt. Tuy nhiên, lĩnh vực tái chế chất thải nhựa ở Việt Nam vẫn chưa phát triển, tỷ lệ phân loại chất thải nhựa tại nguồn rất thấp, chủ yếu dựa vào lực lượng thu mua phế liệu và một số cơ sở xử lý chất thải rắn có công đoạn phân loại tách nhựa khỏi chất thải rắn.
Theo số liệu thống kê, chất thải nhựa chiếm 8 - 16% chất thải rắn sinh hoạt đô thị và Việt Nam thuộc Top các quốc gia xả nhiều rác thải biển nhất thế giới, với khoảng 1,8 triệu tấn/năm.
Ngoài ra, túi nilon chiếm khối lượng khá lớn trong thành phần nhựa thải và hiện diện ở khắp nơi trong đời sống xã hội, từ đô thị đến nông thôn. Ước tính mỗi năm Việt Nam sử dụng và thải bỏ khoảng hơn 30 tỷ túi nilon/năm. Riêng đô thị nhựa là túi nilon khoảng 10,48 – 52,4 tấn/ngày. Đồng thời, chỉ khoảng 17% số túi nilon được thường xuyên tái sử dụng, số còn lại đều bị thải bỏ sau khi dùng một lần.
Vì vậy cần thiết phải có các giải pháp công nghệ - kỹ thuật thân thiện môi trường trong tái chế tái sử dụng, hoặc tạo sản phẩm nhựa sinh học dễ phân hủy dùng trong đời sống, khuyến khích, đầu tư tạo điều kiện để có được các kết quả áp dụng vào thực tế. Đây là khó khăn và cũng là cơ hội lớn cho các DN đầu tư vào lĩnh vực này.
Cần cơ chế thúc đẩy đầu tư vào nhựa tái chế
Theo ông Hồ Đức Lam, Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam, dư địa trong ngành nhựa tại Việt Nam rất lớn, nhưng 80% nguyên liệu nhựa nhập khẩu vì thế nhà nước cần chú trọng kêu gọi các nhà đầu tư và DN nội địa đẩy mạnh sản xuất kinh doanh nguyên vật liệu trong nước. Lý do được ông Lam chỉ ra là hiện tại các đơn vị sản xuất tại Việt Nam chỉ làm nguyên liệu đầu cuối nên dẫn đến phục thuộc nước ngoài. Vấn đề thứ hai là nhà nước phải tập trung thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm tái chế, tạo ra thói quen sử dụng và phân loại đầu nguồn, để tận dụng hiệu quả nguồn phế liệu trong nước.
Thứ Trưởng Võ Tuấn Nhân cho biết, trong các công cụ bảo vệ môi trường, quỹ bảo vệ môi trường là công cụ kinh tế linh hoạt, với vai trò cơ bản cung cấp nguồn tài chính dài hạn, ổn định cho các dự án, chương trình bảo vệ môi trường.
Ở Việt Nam, hệ thống các quỹ bảo vệ môi trường được thành lập và hoạt động theo Luật Bảo vệ môi trường, gồm Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam (VEPF) và các quỹ bảo vệ môi trường địa phương, các quỹ môi trường khác do tổ chức hoặc doanh nghiệp thành lập.
Đến nay, nhiều dự án, chương trình và hoạt động bảo vệ môi trường đã triển khai thành công và hiệu quả nhờ vào chính sách ưu đãi của Nhà nước, tiếp nhận hỗ trợ tài chính từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam và sự trợ giúp từ các tổ chức quốc tế.
Liên quan đến hỗ trợ từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, ông Trần Kiên đại diện VEPF - cho biết, trên thực tế, 8 lĩnh vực ưu tiên mà VEPF tập trung cho vay trong thời gian vừa qua gồm: Xử lý nước thải công nghiệp tập trung; nước thải sinh hoạt tập trung trên 2500m3/ngày; Xử lý chất thải nguy hại, chất thải công nghiệp tập trung; Xử lý rác thải sinh hoạt… Các tiêu chí để Quỹ lựa chọn DN được vay vốn là tính cấp thiết và hiệu quả môi trường; tính kinh tế và khả năng tài trợ; quy mô và tính đặc thù… Ông Kiên cho rằng, các DN ngành nhựa khi có dự án đúng tiêu chí sẽ được VEPF hỗ trợ vốn để đầu tư dự án.
Nguồn: Thùy Dương/Báo Công thương điện tử