Ra đời hơn 10 năm, song Luật Cạnh tranh (được Quốc hội thông qua năm 2004), được đánh giá là chưa phát huy hiệu quả trong việc giám sát, quản lý các hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như tạo nên một môi trường cạnh tranh, “sân chơi” lành mạnh cho doanh nghiệp.
Vì vậy, việc trình Quốc hội sửa Luật lần này nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Cạnh tranh 2004.
 Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, việc sửa đổi lần này sẽ khắc phục hạn chế trong việc thiếu cơ sở để kiểm soát các hành vi được thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh tới môi trường cạnh tranh tại Việt Nam. Bởi “với xu thế toàn cầu hóa kinh tế và mở cửa thị trường, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng mở rộng trên phạm vi lãnh thổ của nhiều quốc gia khác nhau. Khi đó, thực tiễn sẽ phát sinh các hành vi phản cạnh tranh diễn ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia, nhưng có tác động tới môi trường cạnh tranh trong nước. Để đối phó với thực trạng này, nhiều quốc gia đã mở rộng phạm vi áp dụng của Luật Cạnh tranh trên nguyên tắc tác động ảnh hưởng của hành vi để kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh xuyên biên giới và bảo vệ thị trường trong nước”- Bộ trưởng Bộ Công Thương phân tích.
Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi) nêu rõ, việc sửa đổi, bổ sung Luật Cạnh tranh năm 2004 nhằm tăng cường hiệu quả thực thi, đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn trong tình hình mới như: Đáp ứng các yêu cầu trong xu thế hội nhập kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế; đảm bảo sự thích ứng với môi trường kinh doanh. Đặc biệt, nhằm khắc phục hạn chế trong việc thiếu cơ sở để kiểm soát các hành vi được thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng gây tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam; thay đổi cách tiếp cận để kiểm soát hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền; tập trung kinh tế và hành vi cạnh tranh không lành mạnh để phản ánh đúng bản chất và tác động của hành vi, phù hợp với thông lệ quốc tế; khắc phục hạn chế về mô hình và địa vị pháp lý của cơ quan cạnh tranh để đảm bảo tính độc lập, tính hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động thực thi pháp luật cạnh tranh.
Việc sửa đổi Luật Cạnh tranh năm 2004 được xác định là sửa đổi một cách cơ bản và toàn diện. Dự thảo Luật gồm có 121 điều, được bố cục thành 09 chương. So với Luật Cạnh tranh năm 2004, dự thảo Luật giữ nguyên 06 điều, sửa đổi 66 điều, bổ sung 49 điều và bãi bỏ 49 điều.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng trong dự án Luật bao gồm: Mở rộng phạm vi điều chỉnh, dự thảo Luật đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với “hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam” (Điều 1 dự thảo Luật). Mở rộng đối tượng áp dụng, theo đó, ngoài tổ chức, cá nhân kinh doanh và hiệp hội ngành nghề, dự thảo Luật còn áp dụng đối với “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có liên quan”, trong đó bao gồm cả các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính. Thay đổi cách tiếp cận kiểm soát hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, dự thảo Luật đã điều chỉnh cách tiếp cận kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo hướng kết hợp tư duy kinh tế và tư duy pháp lý, phù hợp với thực tiễn cạnh tranh trên thị trường và thông lệ quốc tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi.
Thay đổi cách tiếp cận kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tương tự như kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh, các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền trong dự thảo Luật cũng được thay đổi theo hướng kết hợp tư duy kinh tế và tư duy pháp lý. Thay đổi cách tiếp cận kiểm soát tập trung kinh tế, dự thảo Luật đã thay đổi cách thức tiếp cận kiểm soát tập trung kinh tế theo hướng trao quyền cho cơ quan cạnh tranh trong việc đánh giá tác động cạnh tranh của việc tập trung kinh tế và tăng cường sự chủ động của doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục thông báo với cơ quan cạnh tranh và mở rộng các yếu tố đánh giá một vụ việc tập trung kinh tế.
Tờ trình cũng cho biết, Dự thảo Luật mới sẽ điều chỉnh quy định kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: Thứ nhất, đối với một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được quy định tại Luật khác, dự thảo Luật đã quy định theo hướng dẫn chiếu đến quy định của pháp luật khác, đồng thời bổ sung nguyên tắc xử lý để tránh chồng chéo, xung đột trong thực thi. Thứ hai, dự thảo Luật đã bãi bỏ quy định về hành vi “bán hàng đa cấp bất chính” và hành vi “phân biệt đối xử của hiệp hội”, do các hành vi này không phản ánh đúng bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thứ ba, dự thảo Luật đã bổ sung thêm hành vi “lôi kéo khách hàng bất chính” có xu hướng xảy ra ngày càng phổ biến và có bản chất phù hợp với khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh quy định tại dự thảo Luật. Thứ tư, dự thảo Luật đã lược giản hoá trình tự, thủ tục điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, theo đó bãi bỏ thủ tục điều tra sơ bộ và rút ngắn thời hạn điều tra chính thức đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh từ 90 ngày xuống còn 60 ngày kể từ ngày ban hành quyết định điều tra.
Bên cạnh đó là hoàn thiện mô hình cơ quan cạnh tranh, quy định về cơ quan cạnh tranh trong dự thảo Luật được tiếp cận theo hướng nâng cao tính độc lập và thẩm quyền của cơ quan cạnh tranh để đảm bảo khả năng thực thi hiệu quả Luật Cạnh tranh (sửa đổi). Theo đó, Cơ quan cạnh tranh Quốc gia là cơ quan duy nhất thực thi Luật Cạnh tranh (sửa đổi) trên cơ sở hợp nhất 02 cơ quan hiện hành, gồm cơ quan quản lý cạnh tranh (Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương) và Hội đồng cạnh tranh. Cơ quan cạnh tranh Quốc gia là cơ quan trực thuộc Bộ Công Thương. Đồng thời, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan cạnh tranh Quốc gia.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đồng bộ, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, ngày 07/9/2017, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã họp phiên mở rộng thẩm tra sơ bộ dự án Luật này và ngày 14/9/2017, tại phiên họp thứ 14, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật. Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thường trực Ủy ban Kinh tế, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương có Báo cáo số 100/BC-BCT ngày 11/10/2017 về tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội đối với dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi). Ngày 17/10/2017, Ủy ban Kinh tế đã họp phiên toàn thể thẩm tra dự án Luật.
Ủy ban Kinh tế tán thành với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Cạnh tranh nhằm góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đồng bộ, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, tăng cường hiệu quả, hiệu lực và tính minh bạch trong thực thi pháp luật về cạnh tranh, phù hợp với các cam kết quốc tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sửa đổi Luật Cạnh tranh cũng là một bước quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ và giải pháp về “hoàn thiện thể chế về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch về độc quyền nhà nước” nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Về hồ sơ và bố cục dự án Luật, Ủy ban Kinh tế nhận thấy dự án Luật đã được Cơ quan soạn thảo chuẩn bị công phu trên cơ sở tổng kết thực tiễn 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh năm 2004 và kết quả rà soát các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan, đối chiếu với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh. Hồ sơ dự án Luật đã tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, đề nghị tiếp tục rà soát để làm rõ hơn mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các luật khác có liên quan, như Bộ Luật hình sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành án dân sự, Luật Viễn thông, Luật Phí và Lệ phí, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Các tổ chức tín dụng…, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; luật hóa tối đa các quy định của văn bản dưới luật đã được kiểm nghiệm có tính ổn định trong thực tiễn, giảm bớt các điều giao Chính phủ quy định chi tiết.
Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1 và Điều 2), Ủy ban Kinh tế nhận thấy việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Trong thời gian gần đây, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đều có quy định nghĩa vụ thực thi luật và chính sách về cạnh tranh nhằm bảo đảm điều chỉnh các hành vi phản cạnh tranh gây ảnh hưởng đến quan hệ thương mại, đầu tư, phúc lợi người tiêu dùng tại các nước thành viên. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh tạo cơ sở pháp lý cho Cơ quan cạnh tranh Việt Nam hợp tác với các Cơ quan cạnh tranh của các nước khác trong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh. Trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế có liên quan đến cạnh tranh thì cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong tố tụng cạnh tranh theo nguyên tắc có đi có lại, không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế. Ủy ban Kinh tế cho rằng Luật Cạnh tranh điều chỉnh chung về các hành vi phản cạnh tranh trong đó có hành vi cạnh tranh không lành mạnh, làm cơ sở pháp lý cho các luật chuyên ngành khác quy định cụ thể về hành vi cạnh tranh không lành mạnh phù hợp với ngành, lĩnh vực. Về đối tượng áp dụng, Ủy ban Kinh tế tán thành mở rộng đối tượng áp dụng như quy định tại Điều 2 dự thảo Luật, theo đó Luật Cạnh tranh được áp dụng đối với mọi đối tượng liên quan đến cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, đề nghị quy định rõ hơn các đối tượng được mở rộng áp dụng, trong đó bao gồm cả cơ quan nhà nước.
Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Chương III): về đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể (Điều 13), Ủy ban Kinh tế đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định để bảo đảm tính khả thi; về trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (Điều 14), Ủy ban Kinh tế đề nghị quy định rõ các ngành, lĩnh vực đặc thù hoặc quy định những nguyên tắc cơ bản, làm cơ sở cho các luật khác quy định các hành vi đặc thù trong ngành, lĩnh vực cụ thể.
Về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền (Chương IV): Về xác định sức mạnh thị trường đáng kể (Điều 28), nhiều ý kiến cho rằng dự thảo Luật mới quy định các yếu tố mang tính chất định tính để xác định sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp như “tương quan thị phần”; “khả năng tiếp cận, kiểm soát thị trường”; “khả năng nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng thiết yếu”. Ủy ban Kinh tế đề nghị quy định cụ thể các tiêu chí để đánh giá tính chất “đáng kể” của sức mạnh thị trường.
Về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm (Điều 29), có ý kiến cho rằng nếu hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường “có thể dẫn đến loại bỏ đối đủ cạnh tranh” mới coi là vi phạm Luật Cạnh tranh, tức là phải chứng minh tình huống giả định sẽ xảy ra trong tương lai thì mới xử phạt được doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, trong khi cơ quan quản lý lại không đủ cơ sở định lượng để chứng minh trong thời gian ngắn khả năng “loại bỏ đối thủ”. Như vậy, rất dễ dẫn đến trường hợp khi cơ quan quản lý chứng minh xong hậu quả của hành vi thì đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường đã không còn tồn tại. Ủy ban Kinh tế đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định để bảo đảm tính khả thi.
Về tập trung kinh tế (Chương V), có ý kiến cho rằng Điều 33 quy định ngưỡng tập trung kinh tế được xác định bằng các tiêu chí: tổng tài sản, tổng doanh thu trên thị trường Việt Nam của một doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế. Tuy nhiên, có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh đa ngành nghề, vì vậy tổng giá trị tài sản hoặc tổng doanh thu đa ngành nghề của doanh nghiệp đó có thể rất lớn, nhưng tỷ trọng tài sản, doanh thu của ngành nghề tham gia tập trung kinh tế lại nhỏ. Vì vậy đề nghị quy định rõ tiêu chí để quy định ngưỡng tập trung kinh tế chỉ là giá trị tài sản, giá trị doanh thu của doanh nghiệp trên thị trường Việt Nam đối với ngành nghề tham gia tập trung kinh tế.
Có ý kiến cho rằng quy định giá trị tuyệt đối về tổng tài sản và tổng doanh thu của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế áp dụng chung cho tất cả các ngành hàng hóa, dịch vụ là không phù hợp, vì tổng tài sản, doanh thu của một số ngành có thể rất lớn, nên nếu quy định giá trị tuyệt đối nhỏ thì có thể doanh nghiệp rất bé kinh doanh ngành nghề này cũng nằm trong ngưỡng tập trung kinh tế phải báo cáo. Ngược lại, nếu đặt giá trị ngưỡng thông báo lớn thì những doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có doanh thu, tài sản không lớn có thể không bao giờ phải thực hiện thủ tục thông báo vì giá trị tổng tài sản, doanh thu không đạt đến ngưỡng thông báo tập trung kinh tế. Vì vậy đề nghị xem xét quy định để đảm bảo ngưỡng phải thông báo tập trung kinh tế phù hợp với hoạt động kinh doanh của mọi ngành nghề.
Ủy ban Kinh tế tán thành cách thức tiếp cận việc kiểm soát tập trung kinh tế theo hướng trao quyền cho cơ quan cạnh tranh đánh giá tác động cạnh tranh của việc tập trung kinh tế và tăng cường chủ động của doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục thông báo tập trung kinh tế; chỉ quy định mang tính nguyên tắc về căn cứ xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế và giao Chính phủ quy định chi tiết để bảo đảm thuận lợi trong quá trình điều hành, kịp thời điều chỉnh ngưỡng thông báo tập trung kinh tế phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung quy định về căn cứ đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của tập trung kinh tế cũng như tiêu chí để đánh giá tính chất “đáng kể” của tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh để có cơ sở xác định trong các trường hợp cụ thể, bảo đảm tính khả thi.
Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị xem xét, bổ sung, làm rõ một số nội dung về giải thích từ ngữ (Điều 3); về áp dụng Luật này, các luật khác có liên quan (Điều 4), về chính sách của Nhà nước về cạnh tranh (Điều 6), về trách nhiệm quản lý nhà nước về cạnh tranh (Điều 7), về tố tụng cạnh tranh (Chương VII), về phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh (Điều 114)...

Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Công Thương