Trên thị trường năng lượng, giá dầu ổn định giữa bổi cảnh nhiều nước châu Âu dự định nới lỏng phong tỏa nhằm phục hồi tiêu dùng, nhưng OPEC vẫn hạ thấp dự báo nhu cầu năng lượng toàn cầu năm 2020.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) gần như giữ nguyên ở 19,87 USD/thùng - thấp nhất kể từ tháng 2/2002; dầu Brent Biển Bắc tăng nhẹ thêm 13 US cent (0,5%), lên 27,82 USD/thùng.
Thị trường dầu mỏ không khởi sắc mặc dù OPEC và các nước sản xuất liên minh (OPEC+) đã đạt được thỏa thuận cắt giảm mạnh nguồn cung ứng năng lượng vào cuối tuần trước, theo đó, OPEC+ sẽ cắt giảm sản lượng 9,7 triệu thùng/ngày trong tháng Năm và tháng Sáu.
Trong báo cáo hàng tháng mới nhất, OPEC dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong năm nay sẽ giảm 6,9 triệu thùng/ngày, tương đương 6,9%.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết dự trữ nhiên liệu của nước này tăng mặc dù các nhà máy lọc dầu hoạt động ở mức 69% tổng công suất, thấp nhất kể từ tháng 9/2008.
Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư cho rằng nhu cầu năng lượng sẽ phục hồi sớm hơn dự báo, bởi nhiều nước châu Âu đang dự định nới lỏng quy định phong tỏa để chống dịch COVID-19.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên vừa qua giảm do nhu cầu đối với các loại tài sản an toàn yếu đi sau khi số liệu cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ tuần vừa qua đã tăng ít hơn so với một tuần trước. Chỉ số USD đạt cao nhất 1 tuần so với rổ các đồng tiền chủ chốt cũng góp phần gây sức ép giảm giá vàng.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.711,29 USD/ounce, trong phiên có lúc tăng 1,3%; vàng kỳ hạn tháng 6/2020 giảm 0,5% xuống 1.731,70 USD/ounce.
Số liệu cho thấy 5,2 triệu người Mỹ đã nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp trong tuần vừa qua, giảm so với con số 6,6 triệu đơn trong tuần trước đó, nhưng tổng số đơn trong bốn tuần qua vẫn vượt mức 20 triệu đơn.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ra thông báo về hướng dẫn mở cửa trở lại nền kinh tế, bất chấp những lo ngại từ các chuyên gia y tế, các thống đốc bang và giới lãnh đạo doanh nghiệp về khả năng bùng phát trở lại của dịch bệnh.
Lượng vàng vật chất được tiêu thụ tại Ấn Độ, nước tiêu thụ vàng nhiều thứ hai thế giới, trong năm 2020 có thể giảm xuống mức thấp nhất trong 30 năm qua do tình trạng phong tỏa toàn quốc đã khiến các cửa hàng kim hoàn phải đóng cửa trong suốt mùa cưới và các dịp lễ lớn.
Tuy nhiên, James Steel, trưởng bộ phận phân tích kim loại quý của HSBC cho rằng những bất ổn về y tế, tài chính và kinh tế do dịch COVID-19 và những hệ quả của nó có thể sẽ tiếp tục hỗ trợ giá vàng tăng tới năm 2021.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 0,1% lên 780,43 USD/ounce, trong khi giá bạc giảm 0,6% xuống 15,38 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng đồng đi lên do số liệu từ Trung Quốc cho thấy những dấu hiệu kinh tế nước này dần phục hồi, nhưng đà tăng bị hạn chế bởi lo ngại về tăng trưởng toàn cầu và nhu cầu kim loại giảm ở những thị trường khác trên thế giới.
Kết thúc phiên giao dịch, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,5% lên 5.139 USD/tấn.
Kết quả khảo sát của Reuters cho thấy kinh tế Trung Quốc tăng chỉ 2,5% trong năm nay, tốc độ thấp nhất trong gần nửa thế kỷ và giảm từ 6,1% trong năm ngoái.
Giá nhôm tăng phiên thứ 4 liên tiếp do dự báo nguồn cung giảm và thị trường Trung Quốc dần cải thiện. Nhôm kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,6% lên 1.516,5 USD/tấn vào cuối phiên.
Về những kim loại cơ bản khác, giá kẽm tăng 0,7% lên 1.944 USD/tấn, chì giảm 0,4% xuống 1.695 USD/tấn, thiếc giảm 0,4% xuống 15.040 USD/tấn, nickel gảm 0,1% xuống 11.765 USD/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm sau khi kết quả một cuộc thăm dò cho thấy tăng trưởng GDP của nước này trong quý 1 giảm lần đầu tiên trong gần 3 thập kỷ. Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 0,3% xuống 606 CNY (85,63 USD)/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 6 đã giảm 2,3% xuống 12.695 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 0,8% lên 3.234 CNY/tấn.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 10 tại Thượng Hải đóng cửa tăng 0,2% lên 3.385 CNY/tấn sau khi Trung Quốc công bố giá nhà mới tăng trong tháng 3. Giá nhà mới tại Trung Quốc trở lại tăng trưởng trong tháng 3, sau khi giảm lần đầu tiên trong 5 năm vào tháng 2.
GDP của Trung Quốc trong quý 1/2020 ước tính giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước bởi sự bùng phát của virus corona. Bắc Kinh sẽ công bố các chỉ số kinh tế quan trọng trong ngày 17/4.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 5 vững ở 10,22 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 6,1 USD hay 1,8% lên 337,8 USD.
Giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 1,5 US cent hay 1,2% xuống 1.197 USD/lb; robusta cùng kỳ hạn giảm 1 USD hay 0,1% xuống 1.205 USD/tấn.
Tại Châu Á, cà phê Lampung (Indonesia) được chào bán với mức cộng 250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7 tại London, tương tự như một tuần trước; mức cộng so với các hợp đồng tháng 5-6 là 270 USD/tấn, so với cộng 200 – 350 USD/tấn của tuàn trước. Trên thị trường bắt đầu có cà phê vụ mới nhưng khối lượng chưa nhiều.
Giá cao su tại Tokyo giảm nhẹ trong phiên qua, do nhu cầu tiêu thụ ô tô suy yếu và lo sợ về suy thoái toàn cầu nghiêm trọng. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 tại sàn giao dịch hàng hóa Tokyo lúc đóng cửa giảm 1,1 JPY xuống 151,2 JPY (1,4 USD)/kg; cao su giao tháng 9 tại Thượng Hải giảm 175 CNY xuống 9.880 CNY (1.396 USD)/tấn.
Tập đoàn ô tô Toyota cho biết họ sẽ giảm sản 40% lượng xe thành phẩm tại Nhật Bản trong tháng 5 do nhu cầu giảm trên khắp thế giới.
Giá hàng hóa thế giới sáng 17/4/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

19,97

+0,10

+0,50%

Dầu Brent

USD/thùng

28,66

+0,84

+3,02%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

25.200,00

+550,00

+2,23%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,72

+0,04

+2,14%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

71,70

+1,19

+1,69%

Dầu đốt

US cent/gallon

97,06

+2,43

+2,57%

Dầu khí

USD/tấn

279,00

+8,00

+2,95%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

35.540,00

+500,00

+1,43%

Vàng New York

USD/ounce

1.733,10

+1,40

+0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.922,00

-19,00

-0,32%

Bạc New York

USD/ounce

15,90

+0,13

+0,85%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,30

-0,40

-0,74%

Bạch kim

USD/ounce

788,75

-1,08

-0,14%

Palađi

USD/ounce

2.191,49

+20,58

+0,95%

Đồng New York

US cent/lb

234,20

+3,65

+1,58%

Đồng LME

USD/tấn

5.140,00

+28,50

+0,56%

Nhôm LME

USD/tấn

1.512,50

+5,00

+0,33%

Kẽm LME

USD/tấn

1.938,00

+7,00

+0,36%

Thiếc LME

USD/tấn

14.960,00

-133,00

-0,88%

Ngô

US cent/bushel

328,25

+2,00

+0,61%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

531,25

+0,75

+0,14%

Lúa mạch

US cent/bushel

272,00

-3,00

-1,09%

Gạo thô

USD/cwt

14,38

+0,05

+0,35%

Đậu tương

US cent/bushel

848,00

+2,25

+0,27%

Khô đậu tương

USD/tấn

296,50

+0,40

+0,14%

Dầu đậu tương

US cent/lb

26,86

+0,18

+0,67%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

465,30

+0,50

+0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.258,00

+29,00

+1,30%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

119,70

-1,50

-1,24%

Đường thô

US cent/lb

10,33

+0,05

+0,49%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

109,20

+0,30

+0,28%

Bông

US cent/lb

53,02

+0,22

+0,42%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

332,60

+8,60

+2,65%

Cao su TOCOM

JPY/kg

152,80

+1,60

+1,06%

Ethanol CME

USD/gallon

0,98

+0,01

+0,52%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg