Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) nhận định nhu cầu dầu mỏ trên toàn cầu sẽ tăng chậm lại trong năm tới.
Kết thúc phiên, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 1/2019 giảm 0,5 USD xuống 51,15 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn giảm nhẹ 0,05 USD xuống 60,15 USD/thùng.
Báo cáo tháng 12/2018 của OPEC cho hay nhu cầu dầu mỏ trên toàn cầu dự báo sẽ tăng thêm khoảng 1,29 triệu thùng mỗi ngày lên bình quân 100,1 triệu thùng/ngày, thấp hơn dự báo ban đầu đưa ra hồi tháng 7/2018.
Tuần trước, OPEC và các đồng minh đã nhất trí cắt giảm sản lượng dầu từ đầu năm 2019 với cam kết giảm sản lượng 1,2 triệu thùng/ngày tổng cộng. Theo chuyên gia Fereidun Fesharaki thuộc công ty tư vấn năng lượng FGE, quyết định giảm sản lượng của các nước trong và ngoài OPEC vẫn không đủ mạnh để kiềm chế tình trạng dư cung, giữa bối cảnh sản lượng dầu thô tại Mỹ đã chạm mức cao kỷ lục 11,7 triệu thùng/ngày.
Ngày 12/12 OPEC cho biết họ đã bù cho sự sụt giảm trong xuất khẩu từ Iran. Tổng thống Iran cũng cho biết xuất khẩu của họ đã cải thiện từ đầu tháng 11/2018.
Số liệu từ chính phủ cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 1,2 triệu thùng trong tuần trước, giảm ít hơn nhiều so với số liệu sụt giảm 10 triệu thùng của Viện Dầu mỏ Mỹ và chưa bằng một nửa so với dự báo giảm 3 triệu thùng của các nhà phân tích.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng giữa bối cảnh đồng USD yếu đi và khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng nhiều lần lãi suất trong năm tới giảm đi.
Kết thúc phiên, giá vàng Mỹ giao tháng 2/2019 tăng 0,22% lên 1.250 USD/ounce; vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.244,4 USD/ounce. Trong khi đó, giá bạc giao ngay tăng 1,4% lên 14,73 USD/ ounce, giá palađi tăng khoảng 1,5% lên 1.262 USD/ounce; giá bạch kim tăng 2% lên 798 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD - thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh với giỏ các đồng tiền chủ chốt khác - giảm 0,48% xuống 96,99 (điểm) sau khi dữ liệu từ Mỹ cho thấy chỉ số giá tiêu dùng của nước này không thay đổi trong tháng 11/2018, củng cố quan điểm lạm phát vẫn mạnh song không đủ để khiến Fed tiếp tục tăng đều đặn lãi suất.
Các nhà đầu tư đang dõi theo tiến triển của các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung, tiến trình đàm phán Brexit ,cũng như cuộc họp của Ủy ban Thị trường Mở (FOMC) thuộc Fed, dự kiến diễn ra vào hai ngày 18-19/12 tới.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các nhà đầu tư nghi ngờ về những bình luận lạc quan của Tổng thống Mỹ về khả năng có được một thỏa thuận thương mại với Trung Quốc, trong khi đồng USD gần mức cao nhất một tháng so với các đồng tiền khác.
Trump cho biết ông sẽ can thiệp vào vụ kiện của Bộ Tư pháp chống lại giám đốc điều hành công ty công nghệ Huawei của Trung Quốc nếu việc này giúp đạt được một thỏa thuận thương mại.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London kết thúc phiên giảm 0,5% xuống 6.140 USD/tấn, hướng tới giảm 15% trong năm nay bất chấp dự trữ đồng tại kho LME thấp nhất trong một thập kỷ.
Giá nhôm vững ở mức 1.939 USD/tấn, kẽm – nguyên liệu sản xuất thép – giảm 0,8% xuống 2.570 USD/tấn; chì tăng 0,1% lên 1.976 USD/tấn, thiếc tăng 1,1% lên 19.325 USD/tấn trong khi nickel tăng 0,2% lên 10.795 USD/tấn.
Sản lượng nhôm của Mỹ dự báo sẽ tăng 67% trong năm nay khi nhiều dự án mở rộng công suất đi vào hoạt động, làm gia tăng dư thừa trên toàn cầu. Trong khi đó, Fitch đã điều chỉnh giảm dự báo về giá chì năm 2019 từ mức 2.450 USD/tấn xuống 2.350 USD/tấn do nhu cầu yếu và ngồn cung dư thừa trên toàn cầu.
Giá thép Trung Quốc tăng trong phiên qua, kết thúc 3 ngày giảm. Thành phố Đường Sơn nơi sản xuất thép hàng đầu của quốc gia này dự định tiếp tục cắt giảm sản xuất trong tháng 12 nhằm chạy đua đáp ứng mục tiêu chất lượng không khí trong năm nay. Hợp đồng thép cây trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,3% lên 3.317 CNY/tấn khi kết thúc phiên, trong phiên có lúc giá đã tăng 2,2%. Giá thép cuộn cán nóng tăng 1,2% lên 3.316 CNY/tấn.
Đường Sơm chiếm khoảng 10% tổng sản lượng thép của Trung Quốc đã yêu cầu các nhà máy công nghiệp, gồm cả các nhà máy thép giảm sản lượng khoảng 40% từ ngày 13/12 tới ngày 31/12.
Nhu cầu thép có thể vẫn yếu trong hai tháng mùa đông tới và sản lượng dự kiến ổn định khi các nhà máy thép không bị kiểm soát sản lượng, giá thép có thể ở mức hiện tại hoặc giảm tiếp.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2019 chốt phiên tăng 5 USD tương đương 0,4% lên 1.532 USD/tấn, sau khi xuống mức 1.522 USD thấp nhất 2,5 tháng vào đầu phiên giao dịch. Giá vẫn bị áp lực từ dự đoán nguồn cung dồi dào từ Việt Nam khi quốc gia này đang ở giữa vụ thu hoạch.
Cà phê arabia kỳ hạn tháng 3/2019 tăng 0,7 US cent hay 0,7% lên 1.0305 USD/lb, sát mức thấp nhất 2,5 tháng đã chạm tới trong phiên trước. Brazil đã xuất khẩu 3,42 triệu bao (loại 60 kg/bao) cà phê trong tháng 11/2018, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước.
Giá đường giao tháng 3/2019 giảm 0,09 US cent tương đương 0,7% xuống 12,74 US cent/lb do nguồn cung dư thừa. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 1,5 USD tương đương 0,4% xuống 343,20 USD/tấn.
Thị trường đang tập trung theo dõi tình hình sản xuất ở Ấn Độ và Thái Lan, nơi sản lượng đường dự báo không cao như những con số tiên đoán trước đây bởi giá giảm.
Trong khi đó, Trung Quốc dự định tăng gấp ba công suất sản xuất ethanol năm 2020 sẽ là thông tin tích cực đối với thị trường đường. Trung Quốc có công suất sản xuất ethanol là 2,8 triệu tấn trong năm 2017, và hiện nước này đang xây dựng hoặc tìm kiếm sự chấp thuận cho các nhà máy ethanol mới có khả năng sản xuất 6,6 triệu tấn nhiên liệu sinh học mỗi năm, Dou Kejun, nhà nghiên cứu tại Trung tâm Năng lượng tái tạo Quốc gia Trung Quốc, cho biết.
Giá đậu tương trên sàn Chicago vừa lập kỷ lục cao nhất 4,5 tháng trong do Trung Quốc lần đầu tiên trở lại mua đậu tương Mỹ kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump và người đồng cấp Trung Quốc Tập Cận Bình gặp mặt đầu tháng 12/2018. Hợp đồng đậu tương kỳ hạn tháng 1/2019 tại Chicago kết thúc phiên tăng 5 US cent lên 9,2 USD/bushel sau khi đạt 9,28 USD, mức cao nhất kể từ ngày 31/7.
Có tin các doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc vừa mua ít nhất 500.000 tấn đậu tương Mỹ, với giá trị hơn 180 triệu USD, thời hạn giao hàng (tại cảng Trung Quốc) từ tháng 1 tới tháng 3/2019.
Trung Quốc là khách hàng lớn nhất với đậu tương Mỹ, mua khoảng 60% tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của Mỹ trong năm ngoái với trị giá hơn 12 tỷ USD. Nhưng nhà nhập khẩu hàng đầu thế giới này đã mua rất ít kể từ khi Bắc Kinh tăng mạnh thuế quan với hàng Mỹ vào ngày 6/7 để trả đũa thuế quan với hàng hóa Trung Quốc.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tăng vọt lên mức cao nhất trong 9 ngày, phục hồi từ mức thấp nhất trong 1,5 tuần trong phiên trước đó do các nhà đầu tư săn giá hời khi được hỗ trợ từ bối cảnh giá trên thị trường Thượng Hải mạnh và giá dầu tăng.
Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 5/2019 đóng cửa tăng 3,3 JPY tương đương 2% lên 164,7 JPY (1,45 USD)/kg, trong đầu phiên giá đã lên 165,6 JPY/kg, cao nhất kể từ ngày 3/12.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5/2019, được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đã tăng 100 CNY, kết thúc phiên tại 11.245 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

51,15

-0,5

Dầu Brent

USD/thùng

60,15

-0,05

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.360,00

-360,00

-0,86%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,11

-0,02

-0,58%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

142,51

+0,47

+0,33%

Dầu đốt

US cent/gallon

185,41

+0,32

+0,17%

Dầu khí

USD/tấn

557,25

-7,75

-1,37%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.670,00

-60,00

-0,10%

Vàng New York

USD/ounce

1.249,40

+0,60

+0,05%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.527,00

+2,00

+0,04%

Bạc New York

USD/ounce

14,83

+0,03

+0,18%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,70

+0,70

+1,32%

Bạch kim

USD/ounce

804,80

+1,36

+0,17%

Palađi

USD/ounce

1.263,34

+1,99

+0,16%

Đồng New York

US cent/lb

276,80

-0,20

-0,07%

Đồng LME

USD/tấn

6.140,00

-28,00

-0,45%

Nhôm LME

USD/tấn

1.939,00

0,00

0,00%

Kẽm LME

USD/tấn

2.570,00

-20,00

-0,77%

Thiếc LME

USD/tấn

19.325,00

+200,00

+1,05%

Ngô

US cent/bushel

384,25

-1,00

-0,26%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

528,25

+1,75

+0,33%

Lúa mạch

US cent/bushel

296,75

+2,25

+0,76%

Gạo thô

USD/cwt

10,53

-0,02

-0,19%

Đậu tương

US cent/bushel

918,00

-2,00

-0,22%

Khô đậu tương

USD/tấn

316,20

-0,40

-0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,23

-0,06

-0,20%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

482,80

-2,30

-0,47%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.162,00

+46,00

+2,17%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

103,05

+0,70

+0,68%

Đường thô

US cent/lb

12,74

-0,09

-0,70%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

138,50

+0,70

+0,51%

Bông

US cent/lb

79,97

-0,05

-0,06%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

322,20

+5,80

+1,83%

Cao su TOCOM

JPY/kg

166,30

+1,60

+0,97%

Ethanol CME

USD/gallon

1,26

+0,00

+0,32%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters

 

 

Nguồn: Vinanet