Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm do lo ngại suy thoái kinh tế do Trung Quốc đe dọa áp dụng các biện pháp đáp trả đối với quyết định đánh thuế gần đây nhất của Mỹ.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 1,25 USD, hay 2,1% xuống còn 58,23 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 76 US cent, hay 1,4%, còn 54,47 USD/thùng.
Đường cong lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ đã lần đầu tiên đảo chiều trong phiên ngày 14/8 kể từ năm 2007, dấu hiệu cho thấy giới đầu tư lo ngại nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể đang tiến đến suy thoái.
Trung Quốc mới đây đã tuyên bố sẽ đáp trả quyết định đánh thuế mới nhất của Mỹ, song vẫn kêu gọi Washington đàm phán để đi đến một thỏa thuận thương mại. Căng thẳng giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới đã làm chao đảo các thị trường tài chính toàn cầu và làm gia tăng quan ngại rằng nhu cầu dầu sẽ tăng trưởng chậm lại.
Bên cạnh đó, lượng dầu thô dự trữ của Mỹ bất ngờ tăng tuần thứ hai liên tiếp cũng gây thêm áp lực đối với giá “vàng đen”. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu thô dự trữ của nước này đã tăng 1,6 triệu thùng trong tuần trước, trái ngược với dự đoán giảm 2,8 triệu thùng được đưa ra trước đó.
Giá khí đốt tự nhiên kỳ hạn của Mỹ đã tăng hơn 4% do dự trữ thấp hơn dự kiến và dự báo thời tiết nóng hơn, nhu cầu làm mát cao hơn vào tuần tới. Giá khí đốt kỳ hạn tháng 9/2019 trên Sàn New York đã tăng 8,9 cent, tương đương 4,2%, đạt mức 2.232 USD/triệu mmBtu. Đây là mức giá đóng cửa cao nhất và mức tăng phần trăm hàng ngày lớn nhất kể từ 31/7. Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA) cho biết các nhà máy đã bổ sung thêm 49 tỷ feet khối (bcf) khí vào kho dự trữ trong tuần kết thúc ngày 9/8.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng vững trước những tín hiệu trái chiều về kinh tế và thương mại.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.521,47 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tăng nhẹ 0,2% lên 1.531,20 USD/ounce.
Giá vàng tiếp tục nhận được lực đẩy từ những quan ngại về khả năng suy thoái kinh tế trước tình hình căng thẳng thương mại, bất ổn ở đặc khu hành chính Hong Kong và sự trượt dốc của thị trường khoán tại các nền kinh tế mới nổi.
Tuy nhiên, đà tăng của giá vàng bị hạn chế bởi một loạt số liệu kinh tế trái chiều từ Mỹ, trong đó doanh số bán lẻ tăng mạnh đã thúc đẩy nhu cầu của giới đầu tư đối với các loại tài sản rủi ro. Nhưng ông Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa của công ty TD Securities, nhận định nhu cầu ngày càng tăng đối với vàng nhờ những yếu tố như bất ổn ở Hong Kong và mối lo ngại về nguy cơ vỡ nợ của Argentina không thể thay đổi trong ngày một ngày hai.
Được xem là một kênh trú ẩn an toàn trong những thời kỳ bất ổn về kinh tế và chính trị, giá vàng đã tăng hơn 100 USD/ounce kể từ đầu tháng này.
Bên cạnh đó, giới đầu tư cũng đang bị tác động bởi những tín hiệu trái chiều trong căng thẳng thương mại Mỹ-Trung. Bộ Tài chính Trung Quốc ban đầu cho biết Bắc Kinh sẽ thực hiện những biện pháp đáp trả quyết định đánh thuế mới nhất của Mỹ đối với hàng hóa của nước này. Nhưng sau đó Bắc Kinh lại bày tỏ hy vọng hai bên sẽ tiếp tục đàm phán để tìm kiếm sự đồng thuận.
Ông Norbert Ruecker, chuyên gia cấp cao của công ty Julius Baer, cho rằng sự bất ổn từ căng thẳng thương mại Mỹ-Trung nhìn chung vẫn còn cao và nhiều ngân hàng trung ương được dự đoán sẽ đưa ra các động thái nhằm tránh nguy cơ suy thoái trong vài tuần hoặc vài tháng tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 17,23 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,2% xuống còn 838,78 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm mạnh cũng do quan ngại về triển vọng kinh tế. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,2% xuống còn 5,751 USD/tấn, sau khi giảm còn 5.640 USD trong tháng này, mức thấp nhất hai năm.
Ngoài ra, tồn kho đồng trong kho tại LME tăng 11%, tương đương 29.950 tấn, lên 301.750 tấn cũng là yếu tố ép giá.
Giá thép kỳ hạn tại Trung Quốc tăng cao do giới thương gia hy vọng Bắc Kinh sẽ đưa ra nhiều biện pháp để kích thích nền kinh tế trong nước vốn đang chậm lại trong bối cảnh lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu và một số nhà máy thép quyết định giảm sản lượng, chi phí nguyên liệu cao.
Giá thép cuộn cán nóng giao tháng 10/2019 tại Thượng Hải tăng 0,7% đạt 3.722 CNY(529,78 USD)/tấn. Giá thép cây xây dựng tăng 0,5% đạt 3.715 CNY/ tấn, phiên tăng thứ ba liên tiếp.
Trong khi đó, giá quặng sắt tại Đại Liên chốt phiên giảm 2,8% còn 618 CNY/ tấn, sau khi chạm mức thấp nhất trong hơn 2 tháng trong phiên liền trước.
Tại Singapore, giá quặng sắt giao tháng 9/2019 đã giảm 2,2% xuống còn 86,40 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê và đường đều nhích lên. Đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 tăng 0,02 US cent tương đương 0,2% lên 11,63 US cent/lb, trong khi đường trắng kỳ hạn tháng 10/2019 giảm 1,2 USD tương đương 0,4% xuống 313,5 USD/tấn.
Đối với mặt hàng cà phê, giá arabica tại New York kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,1 cent, tương đương 0,1%, lên 98 cent/lb. Mức tăng giá bị giới hạn bởi nguồn cung dồi dào sau vụ thu hoạch lớn ở Brazil, mặc dù giá thấp hiện tại có thể hạn chế sản xuất ở nơi khác. Giá cà phê Robusta giao tháng 11/2019 đã tăng 16 USD, tương đương 1,2%, đạt 1.354 USD/tấn.
Tại Việt Nam, giá cà phê nội địa của Việt Nam không thay đổi so với tuần trước trong bối cảnh hoạt động buôn bán trầm lắng, trong khi những trận mưa lớn gần đây tại khu vực trồng cà phê lớn nhất nước này không gây thiệt hại cho mùa màng.
Người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê nhân xô với giá 35.000 đồng (1,51 USD/kg, tương tự như tuần trước. Trong khi đó, các thương nhân chào bán cà phê robusta loại 5% đen, vỡ (loại 2) với giá cộng 170-180 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2019 ở phiên liền trước trên sàn London.
Tại Lumpung (Indonesia), cà phê robusta được chào giá cộng 170 – 220 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2019 của phiên liền trước trên sàn London, tăng so với mức cộng 170-200 USD/tấn cách đây một tuần.
Giá cao su tại Tokyo sụt giảm mạnh do lo ngại nhu cầu chậm chạp từ Trung Quốc do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung kéo dài và thị trường chứng khoán tăng điểm.
Tại Tokyo, giá cao su TSR20 giao tháng 2/2020 giảm 0,4% còn 145,4 JPY/kg. giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 chốt phiên tăng 2,6 JPY hay 1,5% đạt 166,0 JPY(1,57 USD)/kg.
Tại Thượng Hải, giá giảm do nhu cầu yếu, tồn kho lớn. Giá cao su giao tháng 9/2019 đã giảm 95 CNY xuống còn 11.375 CNY(1.618 USD)/tấn. Giá cao su TSR 20 giảm 100 CNY xuống còn 9.865 CNY/tấn. Tại Singapore, giá cao su giao tháng 9 giảm 0,9% còn 129,8 US cent/kg.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

54,47

-0,76

-1,4%

Dầu Brent

USD/thùng

58,23

-1,25

-2,1%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.760,00

-380,00

-1,05%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,21

-0,02

-0,94%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

164,69

+1,05

+0,64%

Dầu đốt

US cent/gallon

181,90

+0,83

+0,46%

Dầu khí

USD/tấn

561,00

+1,00

+0,18%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

54.080,00

-340,00

-0,62%

Vàng New York

USD/ounce

1.534,60

+3,40

+0,22%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.186,00

+31,00

+0,60%

Bạc New York

USD/ounce

17,26

+0,05

+0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,00

+0,20

+0,34%

Bạch kim

USD/ounce

838,35

-2,73

-0,32%

Palađi

USD/ounce

1.446,89

-1,32

-0,09%

Đồng New York

US cent/lb

259,55

+0,05

+0,02%

Đồng LME

USD/tấn

5.751,00

-14,00

-0,24%

Nhôm LME

USD/tấn

1.782,00

+7,00

+0,39%

Kẽm LME

USD/tấn

2.264,00

+8,00

+0,35%

Thiếc LME

USD/tấn

17.145,00

+20,00

+0,12%

Ngô

US cent/bushel

372,50

+1,50

+0,40%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

475,75

+1,25

+0,26%

Lúa mạch

US cent/bushel

267,00

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

11,59

-0,02

-0,17%

Đậu tương

US cent/bushel

876,50

+5,75

+0,66%

Khô đậu tương

USD/tấn

297,80

+0,90

+0,30%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,82

+0,37

+1,26%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

453,20

+2,00

+0,44%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.198,00

-6,00

-0,27%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

98,00

+0,10

+0,10%

Đường thô

US cent/lb

11,63

+0,02

+0,17%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

97,60

-1,20

-1,21%

Bông

US cent/lb

59,62

0,00

0,00%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

354,20

+6,10

+1,75%

Cao su TOCOM

JPY/kg

166,60

+0,60

+0,36%

Ethanol CME

USD/gallon

1,27

+0,01

+1,04%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters