Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng trong bối cảnh xung đột leo thang tại Libya cũng như lượng dầu xuất khẩu ngày càng sụt giảm của Venezuela và Iran làm dấy lên những quan ngại về xu hướng thắt chặt nguồn cung dầu toàn cầu. Tuy nhiên, sự thiếu chắc chắn trong lộ trình cắt giảm sản lượng mà Tổ chức Các nước xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) khởi xướng đã phần nào hạn chế đà tăng giá của mặt hàng dầu.
Kết thúc phiên giao dịch, tại thị trường New York, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao kỳ hạn tăng 65 US cent (1%), lên 64,05 USD/thùng. Trong khi đó tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn cũng tiến 54 US cent (0,8%), lên 71,72 USD/thùng.
Viện dầu khí Mỹ (API) cho hay dự trữ dầu thô của nước này đã bất ngờ giảm 3,1 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 12/4/2019, đi ngược với dự báo tăng 1,7 triệu thùng của giới phân tích. Dự kiến, số liệu chính thức từ Bộ Năng lượng Mỹ về dự trữ nguồn cung sẽ được công bố trong ngày 17/4/2019.
Tại Libya, cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn sau khi lực lượng tự xưng Quân đội Quốc gia Libya (LNA) trung thành với Tướng Khalifa Haftar mở cuộc tấn công vào khu vực miền Tây Libya, qua đó khiến nguồn cung dầu của nước thành viên OPEC này tiếp tục bị gián đoạn. Trong khi đó, lệnh trừng phạt của Mỹ áp đặt đối với hai quốc gia thành viên khác của OPEC là Iran và Venezuela cũng thắt chặt hoạt động xuất khẩu dầu của hai nước này. Lượng dầu thô xuất khẩu của Iran trong tháng Tư này đã hạ xuống mức thấp nhất theo ngày kể từ đầu năm nay.
Giá dầu thế giới đã tăng hơn 30% kể từ đầu năm tới nay, nhờ nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC và các nước đồng minh. OPEC và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, sẽ nhóm họp vào tháng Sáu tới để quyết định có tiếp tục kéo dài thỏa thuận cắt giảm sản lượng hay không. Saudi Arabia, nước sản xuất dầu mỏ hàng đầu OPEC, được xem là vẫn muốn tiếp tục thực hiện việc cắt giảm, song một số nguồn tin trong OPEC cho biết có thể các thành viên OPEC sẽ tăng sản lượng từ tháng Bảy tới, nếu sự gián đoạn nguồn cung tiếp diễn ở những nơi khác. Tuy nhiên, Bộ trưởng Tài chính Nga Anton Siluanov cho hay, nước này và OPEC có thể quyết định nâng sản lượng dầu nhằm cạnh tranh thị phần với Mỹ, song điều này có thể sẽ đẩy giá dầu xuống 40 USD/thùng.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều dự báo lạc quan về thị trường dầu. Theo phân tích của ngân hàng Canada RBC Capital Markets, giá dầu thô Brent và WTI sẽ lần lượt đạt trung bình 75 USD và 67 USD/thùng trong những tháng còn lại của năm. Ngoài ra, các yếu tố địa chính trị có thể kéo giá dầu vượt ngưỡng 80 USD trong một thời gian nhất định vào mùa Hè.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm 2019 giữa bối cảnh các số liệu kinh tế tích cực thúc đẩy nhu cầu mua vào các tài sản rủi ro như chứng khoán.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay trên sàn London giảm 1,1% xuống 1.273,91 USD/ounce, sau khi rơi xuống 1.272,70 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 27/12/2018 vào đầu phiên; vàng giao sau trên sàn New York giảm 1,1% xuống đóng phiên ở mức 1.277,20 USD/ounce.
Chiến lược gia Bob Haberkorn, thuộc RJO Futures, nhận định số liệu khả quan về kinh tế Trung Quốc cùng với báo cáo tích cực về thị trường lao động Mỹ đã “đè nặng” lên thị trường vàng.
Bên cạnh đó, sự tăng giá của đồng USD cũng là nhân tố gây bất lợi đối với vàng.
Ông Haberkorn dự báo giá kim loại quý này sẽ chịu thêm sức ép trong vài ngày tới, đặc biệt khi các báo cáo lợi nhuận doanh nghiệp hỗ trợ thị trường chứng khoán tăng mạnh hơn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,2% xuống 14,97 USD/ounce, sau khi rơi xuống 14,81 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 26/12 trong phiên trước, giá bạch kim cũng giảm 0,5% xuống 881 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kẽm giảm hơn 3%, do dự trữ tại London tăng đã thúc đẩy kỳ vọng thiếu hụt nguồn cung sẽ sớm chấm dứt. Giá kẽm kỳ hạn trên sàn London giảm 3,1% xuống 2.809,5 USD/tấn, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 8/2018, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tuần. Song tính từ đầu năm đến nay, giá kẽm tăng khoảng 14% do thiếu hụt nguồn cung khiến dự trữ tại London chạm mức thấp kỷ lục.
Dự trữ kẽm tại London tăng 10.350 tấn lên 66.475 tấn, tăng từ mức thấp kỷ lục (50.000 tấn) trong đầu tháng 4/2019. Nhà phân tích Ross Strachan thuộc Capital Economics cho biết, nguồn cung gia tăng sẽ khiến giá kẽm giảm xuống khoảng 2.300 USD/tấn vào cuối năm nay.
Giá thép tại Trung Quốc kết thúc chuỗi tăng 3 phiên liên tiếp sau khi đạt mức cao nhất 7,5 năm trong phiên trước đó, do các nhà đầu tư thận trọng chờ đợi số liệu GDP.
Giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải giảm 1,1% xuống 3.780 CNY (563,55 USD)/tấn. Đồng thời, giá thép cuộn cán nóng kỳ hạn giảm 1,1% xuống 3.695 CNY/tấn.
Mặc dù giá thép giảm song vẫn được hậu thuẫn bởi nhu cầu từ các ngành hạ nguồn tăng, cùng với kỳ vọng Bắc Kinh và Washington có thể đạt được 1 thỏa thuận thương mại thúc đẩy nhu cầu mua vào. Trong khi đó, giá nhà ở mới của Trung Quốc trong tháng 3/2019 tăng 0,6% so với tháng 2/2019, cao hơn so với mức tăng 0,5% trong tháng 2/2019, dấu hiệu thị trường bất động sản ấm hơn trong bối cảnh nới lỏng các hạn chế tại một số thành phố.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 7/2019 giảm 0,95 UScent tương đương 1% xuống 92,95 UScent/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn giảm 7 USD tương đương 0,5% xuống 1.431 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2019 giảm 0,15 US cent tương đương 1,2% xuống 12,51 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm 12,43 US cent/lb, thấp nhất 2 tuần. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 giảm 1 USD tương đương 0,3% xuống 335,9 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2019 giảm 0,95 US cent tương đương 1% xuống 92,95 US cent/lb, gần mức thấp nhất 13 năm trong tuần trước đó. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2019 giảm 7 USD tương đương 0,5% xuống 1.431 USD/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm phiên thứ 2 liên tiếp xuống thấp nhất 2 tuần, theo xu hướng giá dầu đậu tương trên sàn Chicago suy yếu, trong bối cảnh tăng trưởng nhu cầu thấp hơn so với dự kiến. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,5% xuống 2.151 ringgit (522,98 USD)/tấn, trong phiên có lúc chạm 2.139 ringgit/tấn, thấp nhất kể từ ngày 2/4/2019.
Giá cao su trên sàn Tokyo giảm theo xu hướng giá trên sàn Thượng Hải. Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn TOCOM giảm 1,7 JPY tương đương 0,9% xuống 191,1 JPY (1,71 USD)/kg, rời khỏi mức cao nhất 4 tuần trong phiên trước đó. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn TOCOM giảm 0,2% xuống 172,6 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 255 CNY xuống 11.685 CNY (1.742 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tuần trong đầu phiên giao dịch.
Tổng giám đốc nghiên cứu Hiroyuki Kikukawa thuộc Nissan Securities cho biết: "Các nhà đầu tư bán ra chốt lời trong bối cảnh không chắc chắn về tiến triển trong các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung và trước số liệu GDP của Trung Quốc".
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

64,05

+0,65

+1%

Dầu Brent

USD/thùng

71,72

+0,54

+0,8%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

47.500,00

+500,00

+1,06%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,58

+0,01

+0,19%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

203,78

+0,61

+0,30%

Dầu đốt

US cent/gallon

208,24

+0,02

+0,01%

Dầu khí

USD/tấn

638,00

+4,50

+0,71%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

65.110,00

+550,00

+0,85%

Vàng New York

USD/ounce

1.279,20

+2,00

+0,16%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.586,00

-25,00

-0,54%

Bạc New York

USD/ounce

14,96

+0,04

+0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

54,10

+0,20

+0,37%

Bạch kim

USD/ounce

879,35

-2,10

-0,24%

Palađi

USD/ounce

1.356,84

+0,03

+0,00%

Đồng New York

US cent/lb

293,15

+0,10

+0,03%

Đồng LME

USD/tấn

6.495,00

+15,00

+0,23%

Nhôm LME

USD/tấn

1.855,50

-9,50

-0,51%

Kẽm LME

USD/tấn

2.810,00

-90,00

-3,10%

Thiếc LME

USD/tấn

20.500,00

-75,00

-0,36%

Ngô

US cent/bushel

367,25

-0,50

-0,14%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

450,25

+1,75

+0,39%

Lúa mạch

US cent/bushel

295,25

+0,50

+0,17%

Gạo thô

USD/cwt

10,53

+0,02

+0,14%

Đậu tương

US cent/bushel

901,75

0,00

0,00%

Khô đậu tương

USD/tấn

310,20

+0,10

+0,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,06

+0,04

+0,14%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

462,20

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.346,00

-50,00

-2,09%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

92,95

-0,95

-1,01%

Đường thô

US cent/lb

12,67

-0,12

-0,94%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

107,45

-2,40

-2,18%

Bông

US cent/lb

78,54

-0,02

-0,03%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

335,80

-12,20

-3,51%

Cao su TOCOM

JPY/kg

191,30

+0,20

+0,10%

Ethanol CME

USD/gallon

1,32

-0,01

-0,90%

Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF