Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sâu sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố dự trữ dầu thô của nước này tăng trong tuần kết thúc ngày 12/10/2018.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ WTI giao tháng 12/2018 trên sàn New York tăng 14 cent lên 69,84 USD/thùng, trong phiên có lúc giảm 2,10 USD/thùng; dầu Brent giảm gần 7 USD xuống 81,37 USD/thùng.
Lo ngại về một lệnh trừng phạt của Mỹ nhắm vào Saudi Arabia tạm thời hạ nhiệt khi giới phân tích nhận định khả năng về một lệnh trừng phạt được áp dụng là không cao. Hơn ai hết, Mỹ đang là quốc gia có nhiều nỗ lực và tích cực nhất trong việc kêu gọi các bên liên quan có những động thái cụ thể để hạ nhiệt giá dầu.
Số liệu do EIA vừa công bố cho thấy tồn kho dầu thô của Mỹ tăng 6,5 triệu thùng trong tuần trước, đánh dấu tuần tăng thứ tư liên tiếp, đồng thời lớn gấp 3 lần so với mức dự báo tăng mà giới phân tích đưa ra trước đó.
Con số trên trái ngược so với dữ liệu do Viện Dầu lửa Hoa Kỳ (API) công bố ngày thứ 16/10/2018. Theo API, tồn kho dầu thô của Mỹ giảm 2,1 triệu thùng trong tuần trước, so với dự báo tăng 2,2 triệu thùng.
Tuy có sự trái ngược về dữ liệu, thông tin mà EIA đưa ra vẫn khiến giá dầu sụt giảm.
Theo EIA, tồn kho dầu của Mỹ tăng mạnh cho dù sản lượng khai thác dầu của nước này giảm xuống. Tuần trước, Mỹ khai thác 10,9 triệu thùng dầu/ngày, giảm 300.000 thùng/ngày so với tuần trước đó, một phần do nhiều giàn khoan trên Vịnh Mexico phải ngừng hoạt động do bão Michael.
Tuy nhiên, giá dầu vẫn đang được hỗ trợ do căng thẳng chưa có dấu hiệu xuống thang giữa Mỹ và Saudi Arabia xung quanh vụ biến mất của nhà báo Jamal Khashoggi, người bị cho là đã bị thủ tiêu khi đi vào lãnh sự quán Saudi Arabia ở Thổ Nhĩ Kỳ. Một số nghị sỹ Mỹ đã bày tỏ hoài nghi chính quyền ở Riyadh đứng sau vụ việc này, đặt ra khả năng Washington có thể áp trừng phạt đối với Saudi Arabia. Các nhà đầu tư đang lo ngại rằng nếu chịu sức ép quá lớn từ Mỹ và châu Âu trong vụ này, Saudi Arabia có thể sẽ dùng dầu lửa để làm vũ khí đáp trả. Saudi Arabia đã trấn an rằng Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC) "cam kết, có đủ khả năng, và sẵn sàng" đảm bảo thị trường không thiếu dầu. Mặc dù vậy, không ai dám chắc điều gì sẽ xảy ra. Ông Jim Ritterbusch, Chủ tịch Ritterbusch and Associates, nói rằng Saudi Arabia có thể cắt giảm sản lượng tới 500.000 thùng dầu mỗi ngày "như một phát súng cảnh báo" để khiến Mỹ "chùn tay" trừng phạt.
Nhưng Tổng thống Donald Trump có những phát biểu mang hàm ý rằng Nhà Trắng có thể sẽ không có động thái nào đối với Saudi Arabia, nhất là sau khi Riyadh tuyên bố sẽ tiến hành điều tra.
Lệnh trừng phạt của Mỹ đối với ngành dầu lửa Iran dự kiến sẽ được tái áp vào ngày 4/11 tới. Mỹ đã đề nghị các quốc gia giảm nhập khẩu dầu Iran về 0 trước thời điểm trên, nếu không sẽ phải hứng chịu sự trừng phạt của Mỹ. Một số nhà phân tích cho rằng lệnh trừng phạt của Mỹ có thể khiến xuất khẩu dầu lửa của Iran giảm tới 2 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm trong bối cảnh đồng USD mạnh lên sau khi biên bản cuộc họp tháng Chín của Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố củng cố thêm dự đoán về việc sẽ có thêm những đợt nâng lãi suất nữa tại Mỹ.
Giá vàng giao ngay hạ 0,1% xuống 1.222,56 USD/ounce, trong khi vàng giao tháng 12/2018 giảm 3,6 USD (hay 0,29%) xuống 1.227,40 USD/ounce. Trong khi giá vàng giao ngay hạ 0,1% xuống 1.222,56 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD, thước đo đánh giá đồng bạc xanh với giỏ sáu đồng tiền chính trên thị trường, đã tăng 0,41% lên 95,48 (điểm), mức cao nhất trong một tuần. Lãi suất tăng cao tại Mỹ thường có xu hướng đẩy giá đồng USD tăng lên, qua đó làm giảm sức hấp dẫn của vàng đối với những khách hàng sở hữu các đồng tiền khác. Fed đã nâng lãi suất ba lần trong năm nay và sự đồng thuận được thể hiện tại cuộc họp tháng Chín vừa qua có thể làm tăng kỳ vọng rằng thể chế này sẽ nâng lãi suất tiếp một lần nữa vào tháng 12 tới.
Theo biên bản cuộc họp tháng Chín công bố ngày 17/10, các nhà hoạch định chính sách của Fed đều ủng hộ kế hoạch nâng lãi suất. Fed đã nâng lãi suất ba lần trong năm nay và sự đồng thuận được thể hiện tại cuộc họp tháng Chín vừa qua có thể làm tăng kỳ vọng rằng thể chế này sẽ nâng lãi suất tiếp một lần nữa vào tháng 12 tới.
Một số ngân hàng trung ương đã nâng lượng vàng dự trữ của họ lên mức cao kỷ lục trong những tháng gần đây nhằm giữ giá trị của các đồng tiền trước sự lên giá của đồng bạc xanh.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,2% xuống 14,62 USD/ounce. Trong lúc giá bạch kim sụt giảm 0,4% xuống 833,30 USD/ounce, còn giá palađi giảm 0,7% xuống 1.071 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng ổn định do số liệu cho vay tốt hơn dự kiến của Trung Quốc cho thấy tăng trưởng kinh tế vững bù cho những dấu hiệu sức ép nguồn cung tại Trung Quốc đang giảm. Kết thúc phiên giá đồng trên sàn giao dịch LME giảm 0,1% xuống 6.219 USD/tấn. Đồng giao ngay trên sàn LME hiện giao dịch thấp hơn 3 USD/tấn so với hợp đồng giao sau 3 tháng, dấu hiệu nhu cầu đồng yếu trong ngắn hạn. Nhập khẩu đồng của Trung Quốc tăng trong tháng 9/2018 có thể đáp ứng nhu cầu hiện tại.
Tuy nhiên giá đồng bị kìm hãm trong phạm vi từ 6.100 USD tới 6.350 USD/tấn kể từ cuối tháng 9/2018. Lo sợ về xung đột thương mại Mỹ - Trung sẽ làm suy yếu nhu cầu khiến giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 14 tháng tại 5.773 USD/tấn hồi tháng 8/2018.
Giá nhôm giảm sau khi lượng kim loại này lưu kho LME tăng mạnh trong 2 ngày. Nhôm LME chốt phiên giảm 0,6% xuống 2.022 USD/tấn sau khi lượng lưu kho LME tăng từ 926.100 tấn lên 1.082.600 tấn trong hai ngày.
Trung Quốc đã tăng cường kích thích kinh tế trong những tháng gần đây để chống lại bất kỳ tác động tiêu cực nào từ cuộc xung đột thương mại với Mỹ. Trong động thái mới nhất, ngân hàng trung ương nước này dự kiến sẽ giảm dự trữ bắt buộc trong năm tới và cơ quan kế hoạch nhà nước đã phê duyệt một dự án đường sắt cao tốc trị giá 36,8 tỷ CNY (5,3 tỷ USD). Các ngân hàng Trung Quốc đã mở rộng các khoản cho vay ròng nhân dân tệ mới trong tháng 9/2019 là 1,38 nghìn tỷ CNY (199,25 tỷ USD), nhiều hơn so với giới phân tích dự kiến và tăng so với tháng trước.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica tăng 5,9 US cent tương đương 4,2% lên 1,2255 USD/lb vào cuối phiên, sau khi có lúc đạt 1,2290 USD, cao nhất trong vòng 4 tháng; robusta giao tháng 1/2019 tăng 21 USD tương đương 1.776 USD/tấn, sau khi có lúc đạt 1.781 USD/tấn, cao nhất kể từ 23/5/2018.
Giá đường cũng tăng, với đường trắng kỳ hạn tháng 12/2018 tăng 12 USD hay 3,3% lên 378,50 USD/tấn; đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 0,48 US cent hay 3,6% lên 13,73 US cent/lb, mức cao nhất 7 tháng.
Các đại lý cho biết tin tức sâu bệnh hoành hành có thể làm giảm sản lượng tại Ấn Độ đã góp phần vào triển vọng tăng giá do cung - cầu. Dự báo sản lượng giảm tại Brazil và châu Âu cũng hạn chế nguồn cung. Ngoài ra đồng real của Brazil mạnh hơn tiếp tục thúc đây giá đường và cà phê.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tăng trong phiên qua, theo xu hướng giá dầu mạnh bất chấp áp lực từ yếu tố cơ bản yếu. Cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) tiếp tục tăng phiên thứ 3 liên tiếp ngay cả khi dự trữ cao su ở mức cao và nhu cầu yếu. Kết thúc phiên hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 3/2019 tăng 0,8 JPY (0,0071 USD) lên 169,9 JPY/kg.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 105 CNY (15,17 USD) đóng cửa tại 12.270 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

69,84

-2,10

 

Dầu Brent

USD/thùng

81,37

-7,0

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

53.770,00

-880,00

-1,61%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,31

-0,01

-0,18%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

192,34

+0,47

+0,24%

Dầu đốt

US cent/gallon

231,62

+0,51

+0,22%

Dầu khí

USD/tấn

709,25

+1,75

+0,25%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

70.230,00

-870,00

-1,22%

Vàng New York

USD/ounce

1.226,10

-1,30

-0,11%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.415,00

+16,00

+0,36%

Bạc New York

USD/ounce

14,64

-0,02

-0,16%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,90

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

831,37

-1,21

-0,15%

Palađi

USD/ounce

1.072,61

-0,50

-0,05%

Đồng New York

US cent/lb

277,60

-0,20

-0,07%

Đồng LME

USD/tấn

6.219,00

+4,00

+0,06%

Nhôm LME

USD/tấn

2.022,00

-12,00

-0,59%

Kẽm LME

USD/tấn

2.665,00

+59,00

+2,26%

Thiếc LME

USD/tấn

19.080,00

-120,00

-0,62%

Ngô

US cent/bushel

372,75

-1,50

-0,40%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

515,00

-2,50

-0,48%

Lúa mạch

US cent/bushel

292,00

-3,25

-1,10%

Gạo thô

USD/cwt

11,08

-0,06

-0,58%

Đậu tương

US cent/bushel

879,75

-6,00

-0,68%

Khô đậu tương

USD/tấn

322,20

-1,50

-0,46%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,43

-0,13

-0,44%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

500,90

-1,40

-0,28%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.226,00

+32,00

+1,46%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122,55

+4,90

+4,16%

Đường thô

US cent/lb

13,73

+0,48

+3,62%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

142,20

-1,15

-0,80%

Bông

US cent/lb

78,02

+0,10

+0,13%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

333,90

-6,00

-1,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

166,90

-3,00

-1,77%

Ethanol CME

USD/gallon

1,28

0,00

-0,31%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg