Trên thị trường năng lượng, giá dầu Brent giảm trở lại trước những quan ngại về nguồn cung đang gia tăng. Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giao tháng 9/2018 giảm 0,32 USD xuống 72,58 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 8/2018 lại tăng 0,7 USD (hay 1%) lên 69,46 USD/thùng.
Chuyên gia John Kilduff, một cổ đông của công ty quản lý quỹ đầu tư Again Capital Management ở New York (Mỹ), cho hay dầu thô đã tăng giá ở thời điểm đầu phiên là nhờ thông tin Saudi Arabia có kế hoạch giảm lượng dầu xuất khẩu. Tuy nhiên, sau đó, giá quay đầu giảm sau khi các nhà đầu tư lo ngại về nguy cơ dư cung do Saudi Arabia, Nga và một số nước khai thác dầu mỏ hàng đầu thế giới khác tiếp tục tăng sản lượng khai thác. Xuất khẩu của Saudi Arabia dự báo sẽ giảm khoảng 100.000 thùng/ngày trong tháng 8 do hạn chế sản lượng dư thừa.
Trước đó ngày 18/7, cơ quan quản lý Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết sản lượng khai thác dầu của Mỹ đạt 11 triệu thùng/ngày trong nửa đầu năm nay, tăng gần 1 triệu thùng/ngày kể từ tháng 11/2017, nhờ hoạt động khai thác dầu đá phiến tăng mạnh. Thông tin dự trữ dầu thô ở Mỹ tăng cao đã làm giảm giá dầu trên thị trường giảm.
Tính đến cuối tuần qua, dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 5,8 triệu thùng, trái ngược hoàn toàn với dự báo giảm 3,6 triệu thùng trước đó. Tuy nhiên, thông tin dự trữ dầu thô WTI của Mỹ tại Cushing - trung tâm giao dịch dầu mỏ hàng đầu của nước này - dự báo giảm 1,8 triệu thùng, lại giúp giá dầu WTI đi lên.
Hãng tin CNN dẫn một báo cáo của ngân hàng HSBC nói rằng nếu là một quốc gia, Texas sẽ là nguồn sản xuất dầu lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Nga và Saudi Arabia. Sở hữu hai mỏ dầu đá phiến khổng lồ, bang Texas của Mỹ đang chứng kiến sự gia tăng bùng nổ của hoạt động khai thác "vàng đen" và được dự báo sẽ vượt hai quốc gia vùng Vịnh là Iran và Iraq về sản lượng dầu lửa vào năm 2019.
Những tiến bộ nhanh chóng về công nghệ đã giúp giảm nhanh chi phí khai thác dầu đá phiến, nhất là tại mỏ Permian. Các giếng dầu tại mỏ này giờ đây có thể đạt lợi nhuận với mức giá dầu 40 USD/thùng. Sự nổi lên của Texas trên bản đồ dầu lửa thế giới cho thấy cuộc cách mạng dầu đá phiến đã định hình lại ngành dầu lửa toàn cầu như thế nào. Sản lượng dầu của Mỹ đang lớn chưa từng thấy, giúp nước này giảm phụ thuộc vào nguồn dầu nhập khẩu từ khu vực Trung Đông vốn thường xuyên có biến động địa chính trị.
Dầu đá phiến "không giúp thế giới trở nên yên bình, nhưng giúp thế giới đỡ biến động hơn", ông McNally nói.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp 1 năm khi USD tăng lên. Vàng giao ngay giảm xuống 1.211,08 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2017; vàng giao tháng 8/2018 giảm 3,9 USD (0,3%) xuống còn 1.224 USD/ounce vào thời điểm chốt phiên.
Vào đầu phiên giao dịch, đồng USD đã tăng giá lên mức cao nhất trong một năm so với rổ tiền tệ sau bài phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Tại phiên điều trần trước Quốc hội ngày 18/7, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong bối cảnh triển vọng kinh tế Mỹ vẫn vững mạnh mặc dù phải đối mặt với những bất ổn đến từ chính sách thương mại của chính phủ. Ông Powell nhận định lạc quan về nền kinh tế Mỹ, đồng thời nhấn mạnh rằng quá trình kiến tạo việc làm vẫn được duy trì ổn định và lạm phát vẫn ở quanh mức mục tiêu 2% do Fed đề ra.
Fed đã ra quyết định nâng lãi suất trong tháng Sáu và các nhà hoạch định chính sách cơ quan này cũng phát đi tín hiệu về khả năng tiến hành hai đợt tăng lãi suất nữa trong năm nay.
Theo các nhà giao dịch, tình trạng căng thẳng thương mại toàn cầu đã không thúc đẩy các nhà đầu tư mua vào vàng bất chấp việc kim loại quý này vốn được coi là “nơi trú ẩn an toàn” trong thời kỳ bất ổn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,7% xuống 15,42 USD/ounce sau khi rơi xuống 15,13 USD/ounce, mức thấp nhất trong một năm. Giá bạch kim giảm 0,6% xuống 808,50 USD/ounce, sau khi rơi xuống 788 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ tháng 12/2008.
Trên thị trường sắt thép, giá thép thanh dùng trong xây dựng tại Thượng Hải chốt phiên tăng lên mức cao nhất 10 tháng do lo ngại về nguồn cung sau khi Trung Quốc kiềm chế sản xuất tại các thành phố sản xuất thép hàng đầu nhằm giảm ô nhiễm.
Giá thép thanh kỳ hạn tại sở giao dịch kỳ hạn Thượng Hải chốt phiên đã tăng 0,6% lên 3.963 NDT (587,35 USD)/tấn. Phiên sáng giá đã tăng lên hơn 4.000 NDT/tấn, lần đầu tiên kể từ ngày 4/9.
Thành phố sản xuất thép hàng đầu của Trung Quốc, Tangshan, đã tăng cường các biện pháp kiểm soát ô nhiễm khẩn cấp gần đây cho đến ngày 21/7 vì cảnh báo có thể xảy ra khói bụi lớn. Các nhà sản xuất than cốc cũng được yêu cầu giảm sản lượng trong thời gian đó ở Handan, chiếm 5% sản lượng của cả nước trong năm ngoái.
Giá thép tăng đã hỗ trợ giá quặng sắt. Công ty khai thác khoáng sản của Anh - BHP Billiton Ltd BHP.AX cho biết sản lượng quặng sắt trong quý 4 dự kiến sẽ tăng 3% do năng suất được cải thiện. Giá nguyên liệu sản xuất thép tăng do giá thép cây cao trở lại. Giá quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 0,3% lên 467,5 NDT/tấn sau khi leo lên 474 NDT/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 2/7. Giá than cốc tăng 0,7% lên 2.021 NDT/tấn và than luyện cốc tăng 1,4% lên 1.160,50 NDT/tấn.
Theo các nhà phân tích, các nhà sản xuất thép của Nga sẽ bị tác động tiêu cực bởi hạn ngạch nhập khẩu thép của EU mới đặt ra, ngay cả khi một số công ty thép Nga được phép tăng nguồn cung vào khối này so với một năm trước.
Hôm qua, EU đã thông báo sẽ đặt hạn ngạch nhập khẩu 23 loại sản phẩm thép ở mức trung bình của ba năm qua, và sẽ đánh thuế 25% đối với khối lượng nhập vượt quá số lượng đó
Trên thị trường nông sản, giá cao su tại Tokyo giảm nhẹ phiên giao dịch ngày 19/07 do giá giảm trên thị trường cao su Thượng Hải và các kho dự trữ cao.Giao dịch hàng hóa kỳ hạn tại Tokyo đã chịu áp lực trong tháng qua trong bối cảnh dự trữ su cao tăng và nhu cầu tiêu thụ ổn định.
Zhao Wenting, nhà phân tích của Dongwu Futures cho biết: "Các nguyên tắc cơ bản ổn định. Dự trữ cao su trong khu vực ngoại ô Thanh Đảo đang quay lại mức cao và dự trữ tại Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải cũng rất cao.Trong ngắn hạn, giá có thể sẽ dao động quanh các mức này.
Giá cao su kỳ hạn giao tháng 12 tại Tokyo giảm 1,2 Yên xuống còn 173,2 Yên/kg. Giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải giao tháng 9 giảm 90 NDT xuống còn 10.305 NDT/tấn. Giá hợp đồng cao su giao tháng 8 trên sàn SICOM của Singapore chốt phiên ở mức 133,0 cent Mỹ/kg, giảm 0,4 cent.
Giá cacao kỳ hạn tháng 9 tại New York giảm xuống mức thấp nhất 4-1/2 tháng do hoạt động bán đầu cơ và nhu cầu thương mại yếu. Giá cacao giao tháng 9 tại New York chốt phiên giảm 45 USD, tương đương 1,9%, xuống 2.292 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức 2.288 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 1/3. Đồng Bảng Anh yếu, đã giảm xuống mức thấp nhất trong 10 tháng so với đồng đô la, đang khuyến khích giao dịch mua đầu cơ ở London và bán tại New York, các đại lý cho biết. Giá cacao giao tháng 9 tại London đã giảm 16 pound, tương đương 0,9%, còn 1.693 pound/tấn sau khi giao dịch cao hơn trong hầu hết phiên giao dịch.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

69,46

+0,7

+1%

Dầu Brent

USD/thùng

72,58

-0,32

-0,48%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

48.800,00

-250,00

-0,51%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,77

+0,01

+0,18%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

204,44

+0,09

+0,04%

Dầu đốt

US cent/gallon

208,89

-0,12

-0,06%

Dầu khí

USD/tấn

637,75

-3,75

-0,58%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

66.600,00

-580,00

-0,86%

Vàng New York

USD/ounce

1.216,40

-7,60

-0,62%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.393,00

-39,00

-0,88%

Bạc New York

USD/ounce

15,26

-0,14

-0,92%

Bạc TOCOM

JPY/g

55,50

-0,60

-1,07%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

803,65

-3,46

-0,43%

Palladium giao ngay

USD/ounce

874,40

+1,72

+0,20%

Đồng New York

US cent/lb

268,25

-1,30

-0,48%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.065,00

-85,00

-1,38%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.001,00

-26,00

-1,28%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.545,50

-54,50

-2,10%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.495,00

+20,00

+0,10%

Ngô

US cent/bushel

366,00

+1,00

+0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

506,00

+1,75

+0,35%

Lúa mạch

US cent/bushel

237,25

-3,00

-1,25%

Gạo thô

USD/cwt

11,86

-0,01

-0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

865,25

+3,75

+0,44%

Khô đậu tương

USD/tấn

326,90

+0,80

+0,25%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,23

+0,02

+0,07%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

495,30

+2,00

+0,41%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.292,00

-45,00

-1,93%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

108,80

+0,65

+0,60%

Đường thô

US cent/lb

10,97

-0,11

-0,99%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

169,95

+0,35

+0,21%

Bông

US cent/lb

87,52

-0,03

-0,03%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

484,90

-15,00

-3,00%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,80

-2,40

-1,39%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

+0,01

+0,57%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg