Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng sau khi Mỹ thông báo lượng dầu dự trữ của cường quốc này trong tuần trước đã giảm nhiều hơn dự kiến.
Đóng cửa phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2017 tăng 0,86 USD lên 48,75 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao cùng thời hạn cũng tăng 0,75 USD lên 50,97 USD/thùng tại London.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, dự trữ dầu của nước này đã giảm mạnh 7,2 triệu thùng xuống 483,4 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 21/7, trong khi mức giảm dự kiến trước đó chỉ là 2,6 triệu thùng.
Các nhà phân tích cho biết số liệu này đã thúc đẩy kỳ vọng rằng thị trường dầu mỏ lâu nay vốn trong tình trạng dư thừa nguồn cung đang tiến tới sự cân bằng.
Theo các chuyên gia phân tích, giá dầu tăng cũng một phần do đồng USD yếu khiến mặt hàng này - vốn được giao dịch bằng đồng bạc xanh - trở nên hấp dẫn hơn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong 6 uần, khi đồng USD xuống mức thấp nhất trong 13 tháng.
Giá vàng giao ngay tăng 1,1% lên 1.262,11 USD/ounce, áp sát mức 1.263,42 USD/ounce - mức cao nhất kể từ phiên 15/6 - ghi được trong phiên này.
Đồng USD phiên này bị đẩy xuống mức thấp trong 13 tháng so với các đồng tiền chủ chốt khác sau tuyên bố của Fed. Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng giảm, tạo thêm lực đẩy cho giá vàng.
Đồng USD xuống giá là yếu tố có lợi cho vàng, kim loại được định giá bằng đồng tiền này, khi khiến cho nó rẻ hơn đối với những nhà đầu tư mua bằng các đồng tiền khác. Nhà phân tích Edward Meir thuộc INTL FCStone cho rằng việc Fed có thể giữ nguyên lãi suất ít nhất cho đến cuối năm và lãi suất trái phiếu Mỹ giảm, giá vàng có thể được đẩy lên trong ngắn hạn.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) ngày 26/7 đã quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 1,0-1,25%, đồng thời cho biết vẫn đang tiếp tục theo dõi sát sao tình hình lạm phát. Sau cuộc họp kéo dài hai ngày, Fed cho biết sẽ sớm giảm dần khối lượng trái phiếu khổng lồ đang nắm giữ, nhân tố đẩy đồng USD xuống thấp hơn.
Tuyên bố kết luận sau hai ngày họp của Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC), cơ quan hoạch định chính sách của Fed, được đánh giá là không có nhiều khác biệt so với bản tuyên bố hồi tháng 6/2017 khi Fed quyết định tăng lãi suất. Fed cho biết tỷ lệ lạm phát của Mỹ hiện vẫn đang ở dưới mức mục tiêu 2% do yếu tố giảm giá ngắn hạn tác động.
Bên cạnh đó, cơ quan này cũng xác nhận kế hoạch giảm khối lượng nắm giữ trái phiếu kho bạc Mỹ và các loại chứng khoán được đảm bảo bằng nợ bất động sản. Theo đó, Fed dự định sẽ tăng dần mức trái phiếu bán ra mỗi tháng nhằm đảm bảo thị trường có thời gian điều chỉnh và thích nghi.
Hiện Fed đang nắm giữ hơn 4.000 tỷ USD các tài sản này, phần lớn được mua sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế giai đoạn 2007 - 2009 như một biện pháp nhằm bơm tiền vào nền kinh tế.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này tăng 0,8% lên 16,59 USD/ounce. Giá bạch kim tăng 0,03% lên 923,75 USD/ounce trong khi giá palađi cộng thêm 1,1% lên 866,4 USD/ounce.
Theo nhà phân tích kỹ thuật của Reuters, Wang Tao, giá vàng giao ngay có thể phá ngưỡng kháng cự 1.264 USD/ounce và lên ngưỡng kháng cự mới là 1.271 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô tăng 0,33 US cent tương đương 2,37% lên 14,23 US cent/lb, sau khi có lúc tăng 3,2% lên 14,34 US cent.
Đồng real Brazil tăng giá so với USD góp phần hỗ trợ giá đường và cà phê tăng.
Đường thô giao tháng 10 giá tăng 7,2 USD tương đương 1,88% lên 389,20 USD/tấn.
Cà phê arabica giao tháng 9 cũng tăng giá 4,2 US cent tương đương 3,22% lên 1,384 USD/lb. Robusta giao cùng kỳ hạn tăng 43 USD tương đương 2,05% lên 2.143 USD/tấn.
Sản lượng cà phê của Brazil có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng bởi sâu đục thân.
Trên thị trường Việt Nam, giao dịch cà phê trầm lắng do giá chưa đạt mức kỳ vọng.
TTXVN dẫn nguồn Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết giá cà phê vối nhân xô các tỉnh Tây Nguyên hiện cao hơn 300 đồng mỗi kg so với tháng trước, ở mức 45.400 – 46.000 đồng/kg. Lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam trong 3 tháng còn lại của niên vụ 2016/2017 không còn nhiều bởi nguồn cung thắt chặt và tồn kho gối vụ dự kiến rất thấp.
Cũng theo nguồn tin này, khối lượng xuất khẩu cà phê 7 tháng qua giảm 16,4% về khối lượng nhưng tăng 7,9% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu trong tháng 7 ước đạt 106.000 tấn với giá trị đạt 242 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 7 tháng qua ước đạt 937.000 tấn và 2,12 tỷ USD. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm nay đạt 2.262,8 USD/tấn, tăng 30,4% so với cùng kỳ năm 2016. Đức và Mỹ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm nay với thị phần lần lượt là 16% và 14,3%.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

48,75

+,86

+1,13%

Dầu Brent

USD/thùng

50,97

+0,75

+1,37%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

34.810,00

-220,00

-0,63%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,93

+0,00

+0,03%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

161,42

-0,31

-0,19%

Dầu đốt

US cent/gallon

159,30

-0,23

-0,14%

Dầu khí

USD/tấn

472,75

+2,00

+0,42%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

48.850,00

-620,00

-1,25%

Vàng New York

USD/ounce

1.268,00

+12,40

+0,99%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.491,00

+23,00

+0,51%

Bạc New York

USD/ounce

16,67

+0,21

+1,25%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,60

+0,90

+1,53%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

930,84

-0,72

-0,08%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

870,80

+1,58

+0,18%

Đồng New York

US cent/lb

288,30

+1,10

+0,38%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.329,00

+104,00

+1,67%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.942,00

+12,00

+0,62%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.808,00

-28,00

-0,99%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

20.325,00

+20,00

+0,10%

Ngô

US cent/bushel

387,00

+1,00

+0,26%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

482,25

+4,50

+0,94%

Lúa mạch

US cent/bushel

287,75

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,25

-0,03

-0,24%

Đậu tương

US cent/bushel

1.000,50

+0,25

+0,02%

Khô đậu tương

USD/tấn

325,80

-0,70

-0,21%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,36

+0,15

+0,44%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

499,40

+1,90

+0,38%

Cacao Mỹ

USD/tấn

1.912,00

-14,00

-0,73%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

134,80

+4,20

+3,22%

Đường thô

US cent/lb

14,23

+0,33

+2,37%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

134,05

+1,40

+1,06%

Bông

US cent/lb

68,51

+0,11

+0,16%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

377,50

+0,30

+0,08%

Cao su TOCOM

JPY/kg

212,10

-0,70

-0,33%

Ethanol CME

USD/gallon

1,53

+0,02

+1,19%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg