Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng phiên thứ ba liên tiếp khi Saudi Arabia tạm ngừng xuất khẩu dầu qua tuyến đường Biển Đỏ sau khi tàu chở dầu của nước này bị phong trào Hồi giáo Houthi ở Yemen tấn công.
Căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) dịu xuống cũng được cho là tác động đến giá “vàng đen” thế giới.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 9/2018 tăng 0,8% (hay 0,61 USD) lên 74,54 USD/thùng sau khi có lúc tăng lên 74,83 USD/thùng, mức cao nhất từ phiên 16/7. Tại New York, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao cùng kỳ hạn tiến 0,5% (hay 0,31 USD) lên khép phiên ở mức 69,61 USD/thùng.
Ngày 26/7/2018, sau cuộc gặp Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Jean-Claude Juncker tại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Donald Trump nhất trí không áp thuế đối với xe ô tô, trong bối cảnh EU và Mỹ bắt đầu các cuộc thảo luận về việc cắt giảm các rào cản thương mại khác. Chuyên gia về thị trường John Kilduff tại Again Capital Management tại New York nhận định: “Hiển nhiên điều này là tích cực đối với nền kinh tế và hàng hóa”.
Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu hàng đầu nhất thế giới, ngày 26/7/2018 cho biết nước này đang “tạm ngừng” mọi hoạt động xuất khẩu dầu qua tuyến đường vận chuyển chiến lược Biển Đỏ sau khi tàu chở dầu của nước này bị phong trào Hồi giáo Houthi ở Yemen tấn công ở khu vực này. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), khoảng 4,8 triệu thùng dầu thô và các chế phẩm dầu được vận chuyển qua tuyến đường này mỗi ngày sang châu Âu, Mỹ và châu Á trong năm 2016.
Chuyên gia Oliver Jakob thuộc Petromatrix cho biết tuyến đường vận chuyển đang bị gián đoạn không quan trọng như Eo biển Hormuz…, song việc hạn chế các dòng dầu chảy qua đây sẽ tác động đến không chỉ dầu mà còn các sản phẩm khác do thời gian vận chuyển kéo dài hơn.
Các nhà giao dịch ngày 26/7/2018 cho biết dự trữ dầu tại Cushing, Oklahoma (Mỹ), tiếp tục giảm. Mức giảm được dự đoán là 1,1 triệu thùng dầu tính đến ngày 24/7/2018, theo số liệu từ Genscape.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khi USD tăng và dấu hiệu lắng dịu trong tranh chấp thương mại giữa Mỹ và châu Âu.
Vàng giao ngay giá giảm 0,4% xuống 1.225,89 USD/ounce sau khi vào đầu phiên chạm 1.235,16 USD/ounce, mức cao nhất trong hơn một tuần; vàng giao tháng 8/2016 giảm 6,10 USD (0,5%) xuống 1.225,70 USD/ounce. Các nhà giao dịch nhận định sự mạnh lên của đồng bạc xanh đã gây sức ép đối với giá vàng trong bối cảnh những quan ngại về chính trị đã dịu bớt. Phiên này đồng USD đã tăng 0,2%. Theo các nhà quan sát, giá vàng hiện được giao dịch dưới mức cao hồi tháng Tư khoảng 10%, khi đồng USD trong cùng thời gian tăng 5%.
Một yếu tố khác tác động đến thị trường vàng thế giới là diễn biến mới liên quan tới tranh chấp thương mại giữa Mỹ và châu Âu. Với kết quả hai bên nhất trí giảm rào cản thương mại, hướng đến mục tiêu không thuế quan, không rào cản phi thuế quan và không trợ cấp ở lĩnh vực hàng công nghiệp không tự động…, cuộc đàm phán thương mại giữa Tổng thống Donald Trump và Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Jean - Claude Juncker diễn ra tại Nhà Trắng ngày 25/7 được xem là tín hiệu tích cực cho cả hai phía.
Quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, SPDR Gold Trust, cho biết lượng vàng do quỹ này nắm giữ giảm 0,29% xuống 800,20 tấn tính đến ngày 25/7.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,5% xuống 15,48 USD/ounce sau khi vào đầu phiên có lúc vọt lên 15,67 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 17/7. Trong lúc giá bạch kim giảm 0,9% xuống 832,60 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá hầu hết ổn định sau khi EU và Mỹ đồng ý đàm phán thương mại, làm dịu đi lo sợ về một cuộc chiến thương mại cho dù vẫn còn đó những lo lắng về tăng trưởng tại nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc.
Chủ tịch Ủy ban châu Âu EU, ông Jean-Claude Juncker đã gọi đó là một "sự nhượng bộ lớn" khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 25/7 đã đồng ý hạn chế thuế nhập khẩu ô tô trong khi hai bên triển khai đàm phán cắt giảm các rào cản thương mại khác. Trump và Juncker cũng đồng ý tìm cách giải quyết thuế quan của Mỹ với thép, nhôm cũng như các loại thuế trả đũa của châu Âu.
Tuy nhiên, lo ngại tiếp tục kéo dài rằng căng thẳng thương mại giữa Washington và Trung Quốc có thể vẫn leo thang tiếp. Đồng NDT của Trung Quốc lại giảm trong ngày 26/7, mức giảm hơn 6% so với đồng USD kể từ giữa tháng 6 trong bối cảnh căng thẳng thương mại.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London đóng cửa ổn định tại 6.291 USD/tấn. Kim loại đỏ này đã giảm khoảng 13% từ đầu năm tới nay, bởi căng thẳng thương mại và đồng USD mạnh lên.
Freeport-McMoRan cho biết theo kế hoạch phát triển sửa đổi tại Grasberg, Indonesia sẽ giảm sản lượng đồng trong giai đoạn chuyển đổi thành khai thác ngầm trong năm 2019, 2020.
Giá thép cây xây dựng của Trung Quốc kéo dài chuỗi tăng 3 ngày mặc dù các nhà đầu tư lo lắng trở lại về nhu cầu. Sản lượng thép thô toàn cầu trong tháng 6/2018 tăng 5,8% so với một năm trước, trong khi sản lượng từ nhà sản xuất và tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc tăng 7,5%.
Trên thị trường nông sản, giá đường trắng kỳ hạn giao tháng 10/2018 tăng 3,8 USD tương đương 1,2% lên 327,90 USD/tấn, trong khi đường thô giao cùng kỳ hạn tăng 0,01 US cent tương đương 0,1% lên 11,04 US cent/lb.
Cà phê biến động trái chiều trong phiên vừa qua, với arabica giao tháng 9/2018 giảm 0,35 US cent tương đương 0,3% xuống 1,0920 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn tăng 4 USD tương đương 0,2% lên 1.656 USD/tấn.
Sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2018/19 dự báo tăng so với niên vụ trước nhờ hỗ trợ của thời tiết, trong khi dự trữ dồi dào tại Indonesia trong bối cảnh vụ thu hoạch đang diễn ra đã khiến giá giảm.
Các thương nhân tại Việt Nam cho biết sản lượng niên vụ 2018/19 (bắt đầu từ tháng 10/2018) dự báo ở mức 1,85 triệu tấn hay 30,8 triệu bao loại 60 kg/bao, tăng gần 4% so với niên vụ trước do thời tiết thuận lợi.
Nông dân tại Tây Nguyên đã chào bán cà phê ở mức giá 35.600 – 35.700 đồng (1,54 USD)/kg, tăng từ 34.300 – 35,200 đồng/kg một tuần trước. Nguồn cung trong nước hiện rất thấp, nông dân vẫn giữ khoảng 4-6% lượng cà phê của họ.
Cà phê robusta loại 2, 5% hạt đen và vỡ của Việt Nam được giao dịch thấp hơn hợp đồng robusta kỳ hạn tháng 9 tại London 105 USD/tấn, một tuần trước thấp hơn 90 – 100 USD/tấn.
Trong khi đó, robusta tại tỉnh Lampung của Indonesia được giao dịch cao hơn hợp đồng kỳ hạn tháng 11 tại London 50 USD/tấn.
Một quan chức tại Hiệp hội công nghiệp và các nhà xuất khẩu cà phê Indonesia tại Lampung ước tính sản lượng robusta của tỉnh này trong năm nay giảm 40% do thời tiết không thể đoán trước.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm, trong bối cảnh lo ngại về nhu cầu tại Trung Quốc, nước mua lớn nhất thế giới do căng thẳng thương mại, trong khi một vụ nổ bên ngoài đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh làm dấy lên lo lắng về sự ổn định chính trị.
Một quả bom phát nổ bên ngoài đại sứ quán Mỹ trong ngày 16/7, gây thương tích cho kẻ tấn công đơn độc, nhưng cảnh sát tuyên bố đó đơn thuần chỉ là một "thiết bị pháo hoa".
Các nhà đầu tư lo lắng cả về khía cạnh kinh tế và chính trị của Trung Quốc trong bối cảnh cuộc chiến thương mại với Mỹ.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1 trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) chốt phiên giảm 1,7 yên hay 1% xuống 167,1 yên (1,51 USD)/kg. Hợp đồng cao su TOCOM giao dịch quanh mức thấp nhất trong 22 tháng sau khi đã chạm tới trong phiên trước.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 15 NDT đóng cửa tại 10.295 NDT(1.519 USD)/tấn. Khả năng có một số ảnh hưởng đến sản lượng cao su tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc do mưa nhiều nhưng giá cao su có thể bị áp lực giảm do lo lắng về Trung Quốc.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

69,61

+0,31

+0,5%

Dầu Brent

USD/thùng

74,54

+0,61

+0,8%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

50.360,00

+190,00

+0,38%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

0,00

0,00%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

215,54

-0,69

-0,32%

Dầu đốt

US cent/gallon

217,00

-0,69

-0,32%

Dầu khí

USD/tấn

664,50

-0,75

-0,11%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

68.460,00

+270,00

+0,40%

Vàng New York

USD/ounce

1.231,40

-3,90

-0,32%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.355,00

-15,00

-0,34%

Bạc New York

USD/ounce

15,43

-0,07

-0,45%

Bạc TOCOM

JPY/g

55,10

-0,40

-0,72%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

827,79

+2,88

+0,35%

Palladium giao ngay

USD/ounce

930,03

+0,55

+0,06%

Đồng New York

US cent/lb

281,20

-0,60

-0,21%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.291,00

+1,00

+0,02%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.067,00

+5,00

+0,24%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.584,00

-1,00

-0,04%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.850,00

+100,00

+0,51%

Ngô

US cent/bushel

375,50

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

536,50

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

241,00

+2,00

+0,84%

Gạo thô

USD/cwt

11,96

-0,04

-0,33%

Đậu tương

US cent/bushel

875,25

-0,75

-0,09%

Khô đậu tương

USD/tấn

331,00

-0,70

-0,21%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,63

+0,05

+0,17%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

492,80

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.315,00

+70,00

+3,12%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

109,55

-1,45

-1,31%

Đường thô

US cent/lb

11,03

-0,16

-1,43%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

163,90

-0,85

-0,52%

Bông

US cent/lb

88,13

-0,10

-0,11%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

478,30

-15,00

-3,04%

Cao su TOCOM

JPY/kg

166,80

-0,70

-0,42%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

+0,01

+0,49%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg