Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh do các nhà đầu tư bán nhiều trong bối cảnh sản lượng của Mỹ tăng và có thể nguồn cung trên toàn cầu cũng sẽ tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Dầu Brent giảm 1,5 USD (2%) xuống 75,29 USD/thùng, trong khi dầu WTI giảm 1,06 USD (1,6%) xuống 64,75 USD/thùng.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, sản lượng dầu thô nước này trong tháng 3 đã tăng
2,1% so với tháng 2/2018, lên 10,474 triệu thùng/ngày. Con số này tăng 14,6% so với tháng 3/2017. Trong báo cáo hàng tuần công bố ngày 1/6, công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes cho hay số lượng giàn khoan đang hoạt động tại các mỏ dầu ở Mỹ trong tuần qua đã tăng thêm 2 lên 861 giàn khoan, mức cao nhất kể từ tháng 3/2015.
Thị trường cũng đang nghe ngóng "động tĩnh" về khả năng các nước trong và ngoài OPEC, trong đó có cả Nga, có thể gia tăng khai thác dầu thô trong thời gian tới. Các nước thành viên trong và ngoài OPEC đang tuân thủ và thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng khai thác 1,8 triệu thùng/ngày cho đến hết năm 2018. OPEC có thể sẽ sớm đẩy tăng sản lượng. Các bộ trưởng Saudi Arabia, Các Tiểu Vương quốc Ảrập Thống nhất (UAE), Kuwait và Algeria sẽ nhóm họp với Oman (nằm ngoài OPEC) tại Kuwait vào ngày thứ Bảy (9/6). Dự báo, tại cuộc họp chính thức sắp tới của OPEC (ngày 22/6), nhóm này sẽ thống nhất nâng sản lượng để hạ nhiệt thị trường trong bối cảnh lo ngại về vấn đề nguồn cung của Iran và Venezuela và sau khi Washington bày tỏ quan ngại rằng giá dầu đã tăng “quá xa”.
Với mặt hàng than, giá tham chiếu trong tháng 6 của Indonesia đã được điều chỉnh tăng lên 96,61 USD/tấn, từ mức 89,53 USD/tấn của tháng 5. Phát ngôn viên của Bộ Năng lượng nước này, Agung Pribadi cho hay họ tăng giá than vì Trung Quốc hạn chế sản xuất mặt hàng này và tác động bởi giá dầu thế giới gần đây tăng mạnh. Tuy nhiên, trong phiên vừa qua, giá than cốc tại thị trường Trung Quốc giảm nhẹ 3,5% xuống 2.025 NDT/tấn, trong khi than luyện cốc giảm 1,2% xuống 1.238,50 NDT/tấn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng vững do đồng USD yếu đi và những rủi ro chính trị ở Italia cũng giảm dần, mặc dù triển vọng lãi suất của Mỹ tăng ngăn giá vàng tăng.
Giá vàng giao ngay vững ở 1.292,90 USD/ounce, trong khi vàng giao tháng 8 giảm 2 USD (0,2%) xuống 1.297,30 USD/ounce.
Trước đó trong phiên cuối tuần trước, giá vàng đã giảm sau khi số liệu về tiền lương khả quan hơn mong đợi của Mỹ làm gia tăng những đồn đoán rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục nâng lãi suất trong cuộc họp dự kiến sẽ diễn ra vào tháng Sáu này. Giá vàng khá nhạy cảm với chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, đồng thời làm đồng USD tăng giá khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Chuyên gia Marisa Hernandez của Công ty Neuberger Berman cho rằng trong ngắn hạn, khả năng Fed nâng lãi suất sẽ giữ giá vàng trong biên độ hẹp, nhưng nếu đồng USD bắt đầu sụt giảm tiếp thì đây sẽ là một yếu tố chính có thể tác động tới kim loại quý này.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 16,37 UUSD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,2% xuống 897,25 USD vào lúc cuối phiên mặc dù trước đó có lúc xuống mức thấp nhất 10 ngày là 894,55 USD/ounce.
Các công ty khai thác vàng hàng đầu của Nga đang lên kế hoạch tăng gần gấp đôi sản lượng và có thể đưa nước này thành nhà sản xuất vàng lớn thứ hai thế giới. Theo số liệu của hãng tư vấn Metals Focus (Anh), Nga chiết xuất 8,8 triệu ounce (gần 250 tấn) vàng trong năm 2017, chiếm 8,3% tổng sản lượng toàn cầu. Các mỏ vàng mới được phát hiện được cho là sẽ giúp các công ty khai thác tăng gấp đôi sản lượng trong vòng 7 năm tới. Dự kiến đến năm 2030, sản lượng vàng của Nga sẽ tăng gần 8 triệu ounce (gần 227 tấn). Theo Hiệp hội các Nhà sản xuất Vàng của Nga, các nhà sản xuất nước này đã khai thác 2.189 tấn vàng trong 10 năm qua.
Đối với kim loại công nghiệp, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) – tham chiếu cho toàn thế giới – kết thúc phiên tăng 1,2% lên 6.975 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm mức cao nhất kể từ 22/5 là 6.992 USD/tấn, và được các nhà phân tích nhận định là sẽ còn tiếp tục tăng thêm nữa bởi đồng USD yếu đi và lo ngại khan hiếm nguồn cung khi công nhân ở mỏ đồng lớn nhất thế giới (Escondida tại Chile) bắt đầu cuộc thương lượng với giới chủ về vấn đề tiền lương. Còn nhớ năm ngoái sau khi những cuộc thương lượng như vậy thất bại thì công nhân ở đây đã đình công trong suốt 44 ngày, đẩy giá đồng tăng mạnh. Nếu điều này sẽ lại xảy ra, đúng lúc nhà máy luyện đồng lớn thứ 2 của Ấn Độ phải đóng cửa do vấn đề môi trường, thị trường chắc chắn sẽ nóng lên. Trước khi có sự kiện này, Cơ quan Nghiên cứu Đồng Quốc tế nhận định thị trường năm nay sẽ dư thừa 43.000 tấn, nhưng sẽ thiếu hụt 331.000 tấn vào năm 2019.
Trên thị trường nông sản, giá cacao giao tháng 7 tại New York giảm 107 USD (-4,35%, giảm mạnh nhất kể từ ngày 3/4) xuống 2.351 USD/tấn (mức thấp nhất trong vòng 3 tháng). Cacao tại London cũng giảm 67 GBP tương đương 3,8% xuống 1.693 USD/tấn. Các yếu tố cơ bản vẫn đang tích cực gây áp lực giảm giá mặt hàng này.
Cà phê cũng giảm giá, loại arabica giao tháng 7 giảm 1,25 US cent tương đương 1% xuống 1,215 USD/lb, trong khi loại robusta giao cùng kỳ hạn giảm 5 USD tương đương 0,3% xuống 1.745 USD/tấn. Thị trường đã trở lại bình thường sau khi giá tăng lên mức cao nhất 4 tháng ở phiên giao dịch trước bởi xuất khẩu từ Brazil bị gián đoạn do các lái xe đình công. Theo thông báo mới nhất từ Tổ chức Cà phê quốc tế, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 4 tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước lên 10,18 triệu bao (1 bao = 60 kg); tính chung trong 7 tháng đầu niên vụ 2017/18 (bắt đầu từ tháng 10), xuất khẩu tăng 1,2% lên 70,65 triệu bao, trong đó riêng trong tháng 4 xuất khẩu arabica đạt 6,24 triệu bao (tăng 3,1%), còn robusta đạt 3,94 triệu bao (tăng 14,1%).
Giá đường thô giao tháng 7 giảm 0,62 US cent (4,95%) xuống 11,9 US cent/lb, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 4/2017, do có sự điều chỉnh sau khi tăng mạnh ở phiên giao dịch trước. Phiên thứ Sáu (1/6), hợp đồng giao ngay đã đạt mức cao kỷ lục 3 tháng là 12,97 US cent/lb. Đường trắng phiên vừa qua cũng giảm mạnh nhất kể từ tháng 7/2017, xuống 377,4 USD/tấn (giảm 15,6 USD tương đương 4,4%).
Chính phủ Brazil đã hạ giá nhiên liệu sau khi các lái xe trên toàn quốc đình công đã khiến nhu cầu mía dùng sản xuất ethanol tại nước này giảm bớt. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, hầu hết các ước tính đều cho rằng sản lượng đường ở khu vực sản xuất lớn nhất nước này (khu trung –nam) vẫn giảm vì khô hạn, và dự báo lượng mía các nhà máy mua được để sản xuất đường năm nay sẽ sụt giảm.
Giá cao su tại Tokyo tăng trở lại do đồng yen yếu đi so với USD (giảm 0,15% xuống 109,66 JPY) và chứng khoán Tokyo tăng điểm (lên mức cao nhất 1 tuần) bất chấp số liệu việc làm của Mỹ tích cực, bởi quan ngại nếu xảy ra một cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và các nền kinh tế còn lại trên thế giới thì kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng chậm lại. Cao su giao tháng 11 trên sàn Tokyo (TOCOM) tăng 1 JPY lên 190,4 JPY (1,74 USD)/kg. Trái lại trên các sàn khác, giá đều giảm, cụ thể hợp đồng tháng 9 trên sàn Thượng Hải trái lại giảm 25 NDT xuống 11,895 (1.823 USD)/tấn, trong khi hợp đồng giao tháng 7 trên sàn Singapore giảm 0,6 US cent xuống 142,4 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

64,75

-1,06

-1,6%

Dầu Brent

USD/thùng

75,29

-1,50

-1,95%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

48.480,00

-380,00

-0,78%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,92

-0,01

-0,20%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

212,82

+0,58

+0,27%

Dầu đốt

US cent/gallon

215,59

+0,34

+0,16%

Dầu khí

USD/tấn

662,50

-5,50

-0,82%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

66.410,00

-390,00

-0,58%

Vàng New York

USD/ounce

1.296,30

-1,00

-0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.551,00

+6,00

+0,13%

Bạc New York

USD/ounce

16,43

0,00

-0,01%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,90

+0,30

+0,52%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

899,59

-2,08

-0,23%

Palladium giao ngay

USD/ounce

994,25

-3,20

-0,32%

Đồng New York

US cent/lb

313,75

+0,30

+0,10%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.896,00

+44,00

+0,64%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.305,00

+13,00

+0,57%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.101,00

+1,00

+0,03%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

20.750,00

+150,00

+0,73%

Ngô

US cent/bushel

380,75

-10,75

-2,75%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

505,25

-18,00

-3,44%

Lúa mạch

US cent/bushel

241,25

-4,75

-1,93%

Gạo thô

USD/cwt

11,22

-0,23

-2,01%

Đậu tương

US cent/bushel

1.001,75

-19,50

-1,91%

Khô đậu tương

USD/tấn

368,90

-5,30

-1,42%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,93

-0,26

-0,83%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

525,30

-5,00

-0,94%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.351,00

-107,00

-4,35%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

121,50

-1,25

-1,02%

Đường thô

US cent/lb

11,90

-0,62

-4,95%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

165,20

-0,10

-0,06%

Bông

US cent/lb

90,94

-1,42

-1,54%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

588,40

-5,20

-0,88%

Cao su TOCOM

JPY/kg

189,20

-1,20

-0,63%

Ethanol CME

USD/gallon

1,46

-0,02

-1,49%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg