Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do nhu cầu tại châu Á chậm lại bất chấp bình luận của Bộ trưởng Năng lượng Arab Saudi rằng thị trường đang dần cân bằng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 8/2015 trên sàn New York giảm 23 cent, tương ứng 0,5%, xuống 48,76 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 9/2016 trên sàn London giảm 25 cent, tương đương 0,5%, xuống 50,10 USD/thùng.
Thị trường Mỹ đóng cửa ngày thứ Hai 4/7 để nghỉ Lễ Độc lập do vậy khối lượng giao dịch rất thấp. Khối lượng giao dịch dầu WTI thấp hơn 80% so với mức trung bình 100 ngày.
Bộ trưởng Năng lượng Arab Saudi Khaled Al-Faleh và Tổng thư ký OPEC đồng ý rằng thị trường dầu thô đang dần cân bằng và giá dầu đang phản ánh xu hướng này.
Tuy nhiên, các nhà phân tích tại Morgan Stanley cho rằng cũng đang có dấu hiệu cho thấy giá dầu sẽ sớm giảm trở lại khi nhu cầu xăng chững lại và sản lượng dầu thô của Canada và Nigeria tăng lên.
Tại New York Harbor, ít nhất 2 tàu chở dầu vận chuyển nguyên liệu sản xuất xăng đã thả neo nhưng không thể bốc dỡ hàng. Nhiều tàu chở xăng cũng phải chuyển hướng, cho thấy tình trạng thừa cung gần đây.
Trong khi đó, Công ty Dầu mỏ Quốc gia Nigeria tuần trước cho biết, sản lượng dầu thô của nước này đang tăng khi các đường ống dẫn dầu được sửa chữa sau các vụ tấn công tại Niger Delta khiến sản lượng dầu của nước này xuống thấp nhất 30 năm.
Thỏa thuận nhằm hợp nhất các công ty dầu mỏ quốc gia của Libya có thể tạo điều kiện cho thành viên này của OPEC tăng sản lượng - hiện đang đứng ở mức 1,6 triệu thùng/ngày.
Nhu cầu dầu thô và giá dầu có thể chịu áp lực khi mức lợi nhuận thấp của hoạt động lọc dầu khiến các nhà máy giảm công suất vào thời điểm khi các nhà máy tại châu Á đã tăng tốc trước khi bảo dưỡng định kỳ.
Sản lượng dầu thô của Nga trong tháng 6/2016 tăng nhẹ lên 10,84 triệu thùng/ngày. Trong khi đó, tại Na Uy, công nhân dầu khí đã ký thỏa thuận vào hôm thứ Bảy 2/7, tránh được cuộc đình công tại nước sản xuất hàng dầu Tây Âu này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng có xu hướng đi lên khi tình hình chính trị bất ổn sau sự kiện cử tri Anh bỏ phiếu rời Liên minh châu Âu (EU), hay còn gọi là Brexit, đã hỗ trợ giá kim loại quý này.
Giá vàng lên cao nhất 2 năm do đồn đoán lãi suất thấp sẽ được duy trì, làm tăng nhu cầu vàng như tài sản trú ẩn an toàn, nhất là tại thị trường Trung Quốc.
Thị trường Mỹ đóng cửa nghỉ lễ Độc lập ngày 4/7 nên lượng giao dịch rất ít. Giá vàng giao ngay tăng 0,63% lên 1.350 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 8/2016 tăng gần 1,1% lên 1.353,5 USD/ounce, cao nhất kể từ giữa tháng 3/2014.
Tại châu Âu và Canada vào cuối phiên này, giá vàng kỳ hạn giao tháng Tám tăng gần 1,1% lên 1.353,50 USD/ounce, còn giá vàng giao ngay cũng cộng thêm 0,63% lên 1.350,40 USD/ounce vào lúc 17 giờ 52 phút GMT (giờ địa phương). Kim loại quý này đã chạm mức đỉnh 1.357,60 USD/ounce đêm qua.
Giá bạc cũng được hưởng lợi nhờ sức mua tại Trung Quốc tăng vọt và các yếu tố kỹ thuật khác, tăng hơn 7% và vượt mốc 21 USD/ounce lần đầu tiên trong 2 năm qua.
Trả lời phỏng vấn hãng tin Reuters, chuyên gia phân tích Carsten Fritsch thuộc Commerzbank nhận định sự kiện Brexit đã gây ra tình hình bất ổn và khiến các thị trường tài chính biến động mạnh, qua đó đẩy giới đầu tư tìm đến các tài sản an toàn như trái phiếu và vàng.
Đà hồi phục thời hậu Brexit trên thị trường châu Âu phiên 4/7 chững lại với các chỉ số chứng khoán chủ chốt diễn biến trái chiều. Tuy nhiên, các nhà phân tích cảnh báo rằng tâm lý thận trọng vẫn sẽ kéo dài đến hết tuần với báo cáo ổn định tài chính hàng quý của Ngân hàng trung ương Anh dự kiến công bố vào thứ Ba 5/7, biên bản phiên họp Fed công bố vào thứ Tư 6/7 và số liệu việc làm công bố vào thứ Sáu 8/7.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,9% lên 20,31 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,55% lên 1.065 USD/ounce và giá palladium tăng 1,13% lên 611 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê vững đến tăng so với phiên giao dịch trước. Cà phê robusta trên sàn London tăng 23-29 USD/tấn, còn giá arabica tại New York không đổi do thị trường Mỹ nghỉ Lễ Độc lập.
Theo số liệu sơ bộ, xuất khẩu cà phê của Brazil trong tháng 6/2016 đạt 2,06 triệu bao, giảm 330.000 bao, hay 13,81% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) cho biết, Xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 5 giảm 6,8% xuống 9,32 triệu bao.
Xuất khẩu cà phê Robusta trong tháng 5/2016 giảm 9,6% xuống 3,37 triệu bao, khiến xuất khẩu Robusta trong 9 tháng đầu niên vụ chỉ đạt 27,53 triệu bao, giảm 5,1%.
Xuất khẩu Arabica trong tháng 5 giảm 5,1% so với cùng kỳ chỉ đạt 5,95 triệu bao, nhưng xuất khẩu trong 9 tháng đầu niên vụ 2015-2016 vẫn tăng 6% lên 48,42 triệu bao.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

48,76

-0,23

-0,5%

Dầu Brent

USD/thùng

50,10

-0,25

-0,5%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.520,00

-800,00

-2,55%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,92

-0,07

-2,34%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

148,75

-2,60

-1,72%

Dầu đốt

US cent/gallon

148,90

-2,25

-1,49%

Dầu khí

USD/tấn

438,00

-3,50

-0,79%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.510,00

-770,00

-1,74%

Vàng New York

USD/ounce

1.345,40

+6,40

+0,48%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.395,00

-45,00

-1,01%

Bạc New York

USD/ounce

19,91

+0,32

+1,64%

Bạc TOCOM

JPY/g

64,90

-2,40

-3,57%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.052,55

-17,00

-1,59%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

594,14

-21,58

-3,50%

Đồng New York

US cent/lb

219,60

-2,10

-0,95%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4.893,00

-18,00

-0,37%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.649,50

-15,00

-0,90%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.118,00

-37,00

-1,72%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

18.025,00

+555,00

+3,18%

Ngô

US cent/bushel

360,00

-5,50

-1,50%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

430,25

-15,25

-3,42%

Lúa mạch

US cent/bushel

192,75

-9,00

-4,46%

Gạo thô

USD/cwt

10,45

-0,19

-1,83%

Đậu tương

US cent/bushel

1.137,50

-15,75

-1,37%

Khô đậu tương

USD/tấn

398,00

-3,00

-0,75%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,64

-0,43

-1,34%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

492,30

-1,30

-0,26%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.995,00

+32,00

+1,08%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

146,40

+0,75

+0,51%

Đường thô

US cent/lb

20,78

+0,45

+2,21%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

178,25

+1,05

+0,59%

Bông

US cent/lb

65,22

+0,23

+0,35%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

315,00

+7,30

+2,37%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,70

-2,80

-1,73%

Ethanol CME

USD/gallon

1,57

-0,04

-2,49%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg