Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm trước thềm cuộc họp của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC).
Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc giảm 52 xu Mỹ xuống còn 61,56 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ giảm 36 xu Mỹ và đóng phiên ở mức 52,89 USD/thùng.
Kể từ mức đỉnh cao thiết lập hồi tháng 10 tới nay giá dầu đã giảm gần 30% vì những lo lắng về nguồn cung dư thừa còn nhu cầu yếu.
OPEC, Nga và các nước sản xuất dầu khác nhóm họp ở Vienna, Áo trong tuần này để thảo luận về khả năng cắt giảm sản lượng. Nhiều nguồn tin cho biết một ủy ban giám sát của OPEC và các nước sản xuất dầu chủ chốt, trong đó có Nga, đã đồng thuận về sự cần thiết phải cắt giảm sản lượng trong năm 2019.
Hãng tin RIA dẫn lời người đứng đầu công ty Lukoil, nhà sản xuất dầu lớn thứ hai của Nga, ông Vagit Alekperov, cho biết công ty này sẵn sàng cắt giảm sản lượng dầu nếu OPEC và các nước sản xuất dầu hàng đầu khác cùng nhất trí.
OPEC muốn hạn chế sự gia tăng trong lượng dầu dự trữ trên toàn cầu như kịch bản đã từng xảy ra trước đây khiến giá dầu lao dốc từ năm 2014, trong đó dầu Brent đã có thời điểm rơi xuống dưới mức 30 USD/thùng vào đầu năm 2016. Trong khi đó, Tổng thống Mỹ lại gây áp lực để OPEC không thực hiện ý định này.
Nguồn cung dầu thô của Saudi Arabia đã tăng từ 10,65 triệu thùng/ngày trong tháng 10 lên 11,3 triệu thùng/ngày vào tháng 11 vừa qua. Bên cạnh đó, kho dầu thô dự trữ của Mỹ cũng tăng thêm 5,4 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 30/11 lên 448 triệu thùng, theo số liệu của Viện Xăng dầu Mỹ (API).
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do đồn đoán về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ nâng lãi suất thêm một lần nữa theo sau bình luận của một quan chức của thể chế này và do một số nhà đầu tư bán ra chốt lời khi giá kim loại quý này đạt mức cao nhất trong hơn 5 tuần qua.
Bên cạnh đó, giá palađi cao hơn giá vàng lần đầu tiên trong khoảng 16 năm qua, đạt kỷ lục mới 1.263,56 USD/ounce bởi đồn đoán về lãi suất tăng cao và sự thiếu hụt nguồn cung lớn đã thúc đẩy nhu cầu đối với kim loại được dùng để sản xuất ô tô này.
Cuối phiên, giá vàng kỳ hạn giao tháng 2/2019 giảm 4 USD (0,3%) xuống 1.242,60 USD/ounce, trong khi vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.236,11 USD/ounce.
Giá vàng đã tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 26/10 là 1.241,86 USD/ounce trong phiên ngày 5/12, nhờ đồng USD giảm nhẹ do những lo ngại về tăng trưởng yếu kém và đồn đoán Fed sẽ kết thúc chu kỳ thắt chặt sớm hơn dự báo trước đó.
Ngày 28/11, Chủ tịch Fed Jerome Powell nói rằng lãi suất của Mỹ đang ở gần mức trung tính, theo đó các thị trường cho rằng ngân hàng này sẽ giảm tốc kế hoạch nâng lãi suất.
Tuy nhiên, Chủ tịch Fed chi nhánh New York John Williams ngày 4/12 cho biết Fed dự kiến sẽ tiếp tục nâng lãi suất trong năm 2019 hoặc sau đó, ngay cả khi thể chế này đã chú ý đến những rủi ro tiềm năng trên các thị trường tài chính.
Walter Pehowich, người phụ trách dịch vụ đầu tư tại Dillon Gage Metals, nhận định bình luận của trên của ông John Williams trái ngược với những gì Chủ tịch Fed đưa ra, điều đó đã gây ra sức ép cho vàng.
Fed được cho là sẽ nâng lãi suất tại cuộc họp chính sách hai ngày 18-19/12 tới và giới đầu tư đang theo dõi sát sao để tìm kiếm manh mối về lộ trình lãi suất trong năm 2019.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giao ngay giảm 1% xuống 795,80 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất kẻ từ ngày 12/9 là 785 USD/ounce trong phiên trước đó. Giá bạc giao ngay giảm 0,4% xuống 14,46 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép xây dựng của Trung Quốc bất ngờ đảo chiều tăng cao hơn 4% do các dự kiến sản xuất thắt chặt hơn. Giá thép cây Thượng Hải đóng cửa tăng hơn 4,1% đạt 3.463 CNY (504,35 USD). Giá phôi thép tại Tangshan cũng tăng 60 CNY/tấn lên 3.420 CNY/tấn.
Trong khi đó, triển vọng lạc quan từ thỏa thuận " ngừng bắn" thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã hỗ trợ giá nguyên liệu thép. Giá quặng sắt kỳ hạn giao sau tại Đại Liên tăng 2,5% lên 477.5 CNY/tấn, trong khi giá than luyện cốc tăng 2% lên 1.412 CNY. Giá than cốc giao tháng 1/2019 tiếp tục tăng 3,5% đạt mức 2.337 CNY/tấn sau khi tăng 5,5% hôm liền trước.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 3/2019 giảm 0,95 cent, tương đương 0,9%, xuống 1,0595 USD/lb, sau khi giảm xuống còn 1,0555 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 2/10. Cà phê robusta giao tháng 3/2019 giảm 1 USD, tương đương 0,1%, xuống còn 1.580 USD/tấn, sau khi giảm xuống còn 1.575 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ đầu tháng 10.
Đối với mặt hàng đường, giá đường thô giao tháng 3/2019 giảm 0,03 US cent tương đương 0,2% xuống 12,72 US cents/lb; đường trắng giao tháng 3/2019 giảm 0,08 USD tương 0,2% xuống 343,5 USD/tấn.
Giá ca cao kỳ hạn tại New York giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 7 tuần, do nguồn cung dồi dào từ Bờ biển Ngà, trong khi cà phê chạm mức thấp nhất hai tháng. Giá cacao giao tháng 3/2019 tại New York giảm 77 USD, tương đương 3,5%, xuống 2.110 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 11/10 là 2.095 USD. Giá cacao tại Luân Đôn cũng giảm 41 pound, tương đương 2,55%, xuống còn 1.570 GBP/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo hồi phục nhẹ theo xu hướng tăng trên thị trường Thượng Hải, mặc dù vẫn chịu áp lực từ những yếu tố cơ bản yếu như cầu yếu, cung dồi dào.
Giá cao su tại Tokyo giao tháng 5/2019 tăng 0,9 JPY (0,0080 USD) đạt 163,5 JPY/kg. Giá cao su TSR 20 giao tháng 6/2019 tại TOCOM chốt phiên giảm 0,6 JPY còn 145,6 JPY/kg. Giá cao su giao tháng 5/2019 tại Thượng Hải tăng 80 CNY(11,65 USD) lên mức 11.215 CNY/tấn. Giá cao su Singapore giao tháng 1/2019 đạt mức 123,7 cent Mỹ/kg, giảm 0,2 cent.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,56

-0,33

-0,62%

Dầu Brent

USD/thùng

61,34

-0,22

-0,36%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

42.000,00

+110,00

+0,26%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,45

-0,02

-0,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

143,68

-0,88

-0,61%

Dầu đốt

US cent/gallon

188,15

-0,71

-0,38%

Dầu khí

USD/tấn

568,25

-8,50

-1,47%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.730,00

-50,00

-0,09%

Vàng New York

USD/ounce

1.245,10

+2,50

+0,20%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.486,00

+11,00

+0,25%

Bạc New York

USD/ounce

802,18

+1,98

+0,25%

Bạc TOCOM

JPY/g

1.246,07

+3,56

+0,29%

Bạch kim

USD/ounce

802,18

+1,98

+0,25%

Palađi

USD/ounce

1.246,07

+3,56

+0,29%

Đồng New York

US cent/lb

275,10

-2,30

-0,83%

Đồng LME

USD/tấn

6.175,00

-34,00

-0,55%

Nhôm LME

USD/tấn

1.969,00

-5,00

-0,25%

Kẽm LME

USD/tấn

2.618,00

+29,00

+1,12%

Thiếc LME

USD/tấn

19.180,00

+5,00

+0,03%

Ngô

US cent/bushel

384,25

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

517,75

-0,25

-0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

283,75

-4,00

-1,39%

Gạo thô

USD/cwt

10,83

+0,01

+0,05%

Đậu tương

US cent/bushel

911,50

-2,00

-0,22%

Khô đậu tương

USD/tấn

314,50

+0,60

+0,19%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,74

-0,10

-0,35%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

482,30

-2,40

-0,50%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.110,00

-77,00

-3,52%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

105,95

-0,95

-0,89%

Đường thô

US cent/lb

12,72

-0,03

-0,24%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

2.110,00

-77,00

-3,52%

Bông

US cent/lb

105,95

-0,95

-0,89%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

12,72

-0,03

-0,24%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

2.110,00

-77,00

-3,52%

Cao su TOCOM

JPY/kg

105,95

-0,95

-0,89%

Ethanol CME

USD/gallon

12,72

-0,03

-0,24%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg