Năng lượng: Giá dầu giảm trong tuần dù tăng ở phiên cuối
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu tăng hơn 1% do những vụ tấn công nhằm vào hai tàu chở dầu trên vịnh Oman làm dấy lên lo ngại về khả năng nguồn cung dầu bị gián đoạn.
Khép phiên cuối tuần, dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn tăng 66 US cent lên 61,97 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 49 UScent lên 52,79 USD/thùng.
Ngày 13/6, tàu chở dầu Front Altair của công ty vận tải Na Uy đã bị bốc cháy sau khi bị tấn công khi đang trên đường từ Qatar đi Đài Loan (Trung Quốc). Chiếc tàu thứ hai là Kokuka Courageous do Công ty Kokuka Sangyo có trụ sở tại Tokyo (Nhật Bản) vận hành cũng bị cháy khi đang di chuyển từ một cảng của Saudi Arabia đến Singapore.
Mặc dù vậy, tính chung cả tuần giá vẫn giảm do thị trường lo ngại các bất đồng thương mại sẽ làm giảm nhu cầu dầu toàn cầu.
Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung là một trong những nhân tố chủ đạo chi phối thị trường dầu lúc này, bên cạnh việc các nước sản xuất dầu chủ chốt là Saudi Arabia và Nga chưa nhất trí về việc gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng. Các nhà đầu tư quan ngại về tình trạng kinh tế thế giới giảm tốc sẽ tác động tiêu cực tới nhu cầu dầu thô.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ phiên cuối tuần cũng tăng từ mức thấp nhất gần 3 năm, do dự báo nhiệt độ và nhu cầu tăng khi các nhà máy phát điện đốt nhiều khí hơn để đáp ứng việc sử dụng điều hòa không khí tăng cao và xuất khẩu tăng.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn New York tăng 6,2 US cent tương đương 2,7% lên 2,387 USD/mBTU, ngày tăng mạnh nhất trong 5 tuần. Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên tăng khoảng 2% sau khi giảm khoảng 11% trong hơn 3 tuần qua.
Kim loại quý: Giá vàng tăng tuần thứ tư liên tiếp
Giá vàng thế giới đánh dấu tuần đi lên thứ tư liên tiếp với mức tăng 0,8% trước những đồn đoán về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ hạ lãi suất.
Phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay trên thị trường New York đã giảm 0,2% xuống 1.399,49 USD/ounce mặc dù đầu phiên cùng ngày có lúc tăng 1% lên mức cao nhất kể từ ngày 11/4 là 1.358,04 USD/ounce. Giá vàng giao sau tăng 0,1% lên 1.344,5 USD/ounce.
Số liệu mạnh mẽ về tình hình bán lẻ tại Mỹ trong tháng Năm cho thấy sự khởi sắc trong chi tiêu của người tiêu dùng nước này, qua đó làm giảm bớt lo ngại rằng nền kinh tế đang chậm lại trong quý II.
Một số chuyên gia nói rằng số liệu trên đã giảm bớt yêu cầu Fed phải cắt giảm lãi suất ngay lập tức và cũng khiến kỳ vọng của thị trường xuống thấp hơn.
Chiến lược gia Bob Haberkorn thuộc công ty môi giới đầu tư RJO Futures cho biết thị trường chứng khoán toàn cầu đã yếu đi trong phiên này và các nhà đầu tư thúc đẩy hoạt động mua vào tài sản an toàn như vàng trước thềm cuộc họp của Fed dự kiến diễn ra vào ngày 18-19/6. Theo chuyên gia này, nếu Fed hạ lãi suất trong tháng Sáu, giá vàng sẽ tăng đáng kể.
Thị trường đã đồn đoán Fed sẽ hạ lãi suất ít nhất hai đợt cho đến cuối năm 2019 và có hơn 80% cơ hội ngân hàng này sẽ giảm tỷ lệ lãi suất ngay trong tháng Bảy tới. Môi trường lãi suất thấp hơn sẽ làm gia tăng sức hấp dẫn của vàng nhưng lại gây sức ép lên đồng USD.
Kim loại công nghiệp: Giá quặng sắt cao nhất 6 năm, đồng và thép giảm
Giá quặng sắt tại Đại Liên tăng lên mức cao đỉnh điểm và có tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 2/2019, được thúc đẩy bởi dự kiến nguồn cung thắt chặt và nhu cầu tăng, trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường hỗ trợ nền kinh tế chậm lại.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên tăng 2,2% lên 783,5 CNY/tấn, trong phiên có lúc tăng mạnh 4% lên 797,5 CNY (115,2 USD)/tấn, cao nhất kể từ năm 2013. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt tăng 11,4% và tăng 80% trong năm nay.
Giá quặng sắt giao ngay cũng tăng mạnh, với quặng sắt 62% Fe sang Trung Quốc dao động lên mức cao nhất gần 5 năm (107,5 USD/tấn), tăng so với 104,5 USD/tấn trong phiên trước đó.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 0,5% xuống 3.755 CNY/tấn, xói mòn mức tăng đầu phiên. Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,1% lên 3.628 CNY/tấn.
Giá đồng giảm trở lại sau số liệu sản xuất và đầu tư từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – suy yếu, làm gia tăng tác động đến tăng trưởng và triển vọng nhu cầu từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung kéo dài.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,6% xuống 5.822 USD/tấn. Trong tháng này, giá đồng đã giảm xuống 5.740 USD/tấn, thấp nhất 5 tháng.
Tăng trưởng sản lượng công nghiệp Trung Quốc trong tháng 5/2019 bất ngờ chậm lại xuống mức thấp nhất hơn 17 năm, với đầu tư cũng giảm trong một dấu hiệu cho thấy nhu cầu suy yếu. Trung Quốc chiếm khoảng 1/2 nhu cầu đồng toàn cầu, ước đạt 24 triệu tấn trong năm nay, trong khi Mỹ chiếm gần 10%.
Nông sản: Giá đường, ngô, lúa mì tăng trong phiên cuối tuần
Phiên cuối tuần, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn ICE giảm 1,7 US cent tương đương 1,7% xuống 98,05 US cent/lb. Tính chung cả tuần giá cà phê giảm 5,3%, tuần giảm mạnh nhất trong 1,5 năm. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2019 giảm 22 USD tương đương 1,6% xuống 1.392 USD/tấn.
Giá đường tăng lên mức cao mới 1,5 tháng, do nhu cầu ethanol tăng mạnh và sản lượng đường tại Ấn Độ suy giảm, trong khi giá cà phê giảm. Đường thô kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn ICE không thay đổi ở mức 12,75 US cent/lb, sau khi đạt mức cao mới 1,5 tháng (12,78 US cent/lb). Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn ICE giảm 70 US cent tương đương 0,2% xuống 335 USD/tấn.
Giá ngô tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 5 năm, do dự báo nhiều mưa tại khu vực đông Trung Tây Mỹ trong tuần tới, làm giảm triển vọng diện tích trồng muộn và năng suất cây trồng.
Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 8-1/4 US cent lên 4,5-1/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 4,57-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ tháng 6/2014. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago tăng 5 US cent lên 8,93 USD/bushel. Giá lúa mì đỏ, mềm vụ đông cùng kỳ hạn trên sàn Chicago giảm 1/4 US cent xuống 5,35-1/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 5,44 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 19/12/2018.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng do dự kiến nhu cầu nhiên liệu sinh học từ nhà sản xuất đối thủ - Indonesia – duy trì vững và thiếu nguồn cung dầu cọ thô đã hỗ trợ giá.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn Bursa Malaysia tăng 1,1% lên 2.030 ringgit (487,16 USD)/tấn, giá dầu cọ tăng trong nửa cuối phiên từ mức thấp nhất 1 tháng trong đầu tuần, theo xu hướng thị trường dầu đậu tương.
Kế hoạch của Indonesia, một quốc gia sản xuất dầu cọ đối thủ sẽ tăng thành phần sinh học trong chương trình dầu diesel sinh học bắt buộc, đã hỗ trợ giá thị trường Malaysia. Nước xuất khẩu dầu cọ hàng đầu thế giới đặt mục tiêu tất cả dầu diesel sinh học phải chứa hàm lượng sinh học 30%, được gọi là B30 từ năm tới, tăng từ mức 20% hiện nay.
Giá cao su tại Tokyo giảm theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải, do dự trữ tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn TOCOM giảm 2,6 JPY (0,024 USD) xuống 202 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn TOCOM giảm 1,2%.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 245 CNY (35,39 USD) xuống 11.970 CNY/tấn, do dự trữ cao su tại kho ngoại quan Thượng Hải tăng 0,2% so với mức hôm 31/5/2019.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá 8/6

Giá 15/6

15/6 so với 14/6

15/6 so với 14/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,99

52,51

+0,23

+0,44%

Dầu Brent

USD/thùng

63,29

62,01

+0,70

+1,14%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.120,00

38.750,00

+100,00

+0,26%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,34

2,39

+0,06

+2,67%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

173,89

173,25

+1,26

+0,73%

Dầu đốt

US cent/gallon

182,48

182,94

+2,28

+1,26%

Dầu khí

USD/tấn

558,00

564,00

+6,00

+1,08%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56.290,00

56.350,00

+120,00

+0,21%

Vàng New York

USD/ounce

1.346,10

1.344,50

+0,80

+0,06%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.652,00

4.673,00

-8,00

-0,17%

Bạc New York

USD/ounce

15,03

14,80

-0,09

-0,60%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,50

52,00

+0,10

+0,19%

Bạch kim

USD/ounce

807,04

804,91

-7,76

-0,95%

Palađi

USD/ounce

1.360,22

1.468,58

+19,28

+1,33%

Đồng New York

US cent/lb

262,75

263,10

-2,65

-1,00%

Đồng LME

USD/tấn

5.799,00

5.822,00

-36,00

-0,61%

Nhôm LME

USD/tấn

1.764,00

1.764,50

-22,50

-1,26%

Kẽm LME

USD/tấn

2.484,00

2.453,00

-24,00

-0,97%

Thiếc LME

USD/tấn

19.225,00

19.205,00

-145,00

-0,75%

Ngô

US cent/bushel

415,75

463,50

+7,75

+1,70%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

504,50

542,00

+3,00

+0,56%

Lúa mạch

US cent/bushel

296,00

302,75

-1,75

-0,57%

Gạo thô

USD/cwt

11,73

11,64

-0,01

-0,09%

Đậu tương

US cent/bushel

856,25

923,50

+8,25

+0,90%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,30

331,90

+2,00

+0,61%

Dầu đậu tương

US cent/lb

27,38

28,33

-0,35

-1,22%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

464,70

470,30

-1,50

-0,32%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.466,00

2.496,00

-14,00

-0,56%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

100,95

98,05

-1,70

-1,70%

Đường thô

US cent/lb

12,50

12,92

+0,01

+0,08%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

106,10

104,50

+1,75

+1,70%

Bông

US cent/lb

65,51

65,75

-0,68

-1,02%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

315,80

386,00

+12,20

+3,26%

Cao su TOCOM

JPY/kg

204,80

203,40

+1,40

+0,69%

Ethanol CME

USD/gallon

1,48

1,61

+0,06

+3,94%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters

Nguồn: Vinanet