Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 2% do OPEC và các đồng minh khẳng định sẽ nghiêm khắc đối với những quốc gia không tuân thủ việc cắt giảm sản lượng và sẽ tổ chức một cuộc họp bất thường vào tháng 10 tới nếu thị trường dầu giảm giá thêm nữa.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent giao kỳ hạn tại London tăng 1,08 USD (2,56%) lên 43,30 USD/thùng, trong khi giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tại thị trường New York (Mỹ) tăng 0,88 USD (2,02%) lên 40,97 USD/thùng. Phiên liền trước, cả giá dầu Brent và WTI đều tăng hơn 4%.
Lúc đầu phiên, giá dầu giảm do thông tin số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ở Mỹ giảm và sản lượng khai thác dầu ở Vịnh Mexico tăng sau cơn bão Sally, giá dầu thô đảo chiều đi lên và xu hướng tăng càng được củng cố nhờ các bình luận của OPEC.
Tuy nhiên, sau đó giá dầu đảo chiều tăng sau khi OPEC+ cho biết nhóm này sẽ gây áp lực đối với các nước không tuân thủ việc cắt giảm sản lượng.
Bjornar Tonhaugen, Trưởng bộ phận Thị trường dầu mỏ của Rystad Energy, cho biết: “Mặc dù OPEC+ không đưa ra đề xuất sửa đổi bổ sung nào đối với thỏa thuận cắt giảm nguồn cung hiện tại, nhóm liên minh các nhà sản xuất dầu mỏ này vẫn cho thấy một ấn tượng rằng thỏa thuận vẫn không loại bỏ được hết các rắc rối”.
Theo thông cáo báo chí, nhóm các nhà sản xuất dầu mỏ hàng đầu của OPEC+, bao gồm Saudi Arabia và Nga, đã không đề xuất bất cứ sự thay đổi nào đối với mục tiêu cắt giảm 7,7 triệu thùng dầu/ngày (khoảng tương ứng 8% sản lượng khai thác toàn cầu) hiện nay của họ. Ngoài ra, OPEC+ yêu cầu những nước chậm cắt giảm khai thác, như Iraq, Nigeria và Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất tiến hành cắt giảm hơn nữa để bù vào sản lượng dư thừa trong giai đoạn từ tháng 5-7/2020 và thực hiện từ tháng Chín đến hết tháng Mười Hai.
OPEC+ cũng cảnh báo rằng đại dịch COVID-19 sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng toàn cầu. Một hội đồng kỹ thuật của OPEC+ cảnh báo rằng số ca mắc COVID-19 tại nhiều quốc gia có thể làm hạn chế nhu cầu dầu mỏ, dù có nhiều dấu hiệu cho thấy kinh tế phục hồi và những dấu hiệu ban đầu về sự sụt giảm của các kho dự trữ dầu mỏ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do giới đầu tư giảm hy vọng về việc Mỹ sẽ có thêm các biện pháp kích thích kinh tế.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.943,87 USD/ounce vào cuối phiên, trước đó có thời điểm chạm mức thấp nhất kể từ ngày 9/9 là 1.932,36 USD; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 1,1% xuống 1.949,90 USD/ounce.
Thông báo của Fed được đưa ra sau khi thị trường đóng cửa phiên 16/9, cho thấy lãi suất sẽ vẫn được duy trì ở mức gần 0% cho đến hết năm 2023 nhằm hỗ trợ nền kinh tế Mỹ. Điều này có thể thúc đẩy giá vàng trong dài hạn, nhưng các nhà đầu tư vẫn đang bán ra kim loại quý này để chốt lời trước đánh giá lạc quan hơn của Fed về nền kinh tế.
Bart Melek, người phụ trách mảng chiến lược hàng hóa của công ty TD Securities, cho biết: “Mặc dù thực tế thái độ của FED trong kỳ họp vừa qua là khá ôn hòa, nhưng có vẻ như đối với thị trường vàng, điều đó vẫn chưa đủ. Đã xuất hiện một số lo ngại rằng nếu không có những gói kích thích kinh tế mới thì vàng sẽ ít có động lực để tăng giá thêm”.
Báo cáo của Bộ Lao động Mỹ cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu ở mức 860.000 trong tuần kết thúc ngày 11/9, vượt dự báo và điều này gây sức ép lên giá vàng.
Trong khi đó, Fed tại Philadelphia công bố chỉ số của lĩnh vực chế tạo giảm xuống 15 trong tháng Chín, so với mức 17,2 trong tháng Tám.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 9/2020 giảm 37,6 US cent, hay 1,37%, chốt phiên ở mức 27,1 USD/ounce; bạch kim giao tháng 10/2020 giảm 42,6 USD, hay 4,38%, xuống 930,9 USD/ounce, trong khi palađi giảm 3,2% xuống 2.323,76 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng vững giữa bối cảnh thị trường việc làm của Mỹ có dấu hiệu tốt lên. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,1% lên 6.786 USD/tấn vào lúc đóng cửa. Mặc dù vậy, mức giá này vẫn sát mức cao nhất 2 năm là 6.830 USD/tấn chạm tới hôm 1/9.
Trong khi đó, giá kẽm giảm 0,6% xuống 2,513 USD, kết thúc chuỗi 4 phiên tăng, giá nhôm giảm 0,7% xuống 1.783 USD / tấn, chì tăng 0,3% lên 1.901 USD, thiếc giảm 1% xuống 18.100 USD và nickel giảm 1,1% xuống 15.065 USD.
Giá sắt thép trên thị trường Trung Quốc giảm phiên thứ 3 liên tiếp do triển vọng nguồn cung tiếp tục được cải thiện và những dấu hiệu cho thấy nhu cầu thép ở Trung Quốc không mạnh như dự kiến.
Trên sàn Đại Liên, quặng sắt kết thúc phiên vừa qua giảm 2,7% xuống 790 CNY (116,67 USD)/tấn, thấp nhất kể từ 31/7. Trên sàn Singapore, khoáng sản này cũng giảm 2,5% xuống 116,65 USD/tấn, thấp nhất kể từ 31/8. Giá thép cây trên sàn Thượng Hải (kỳ hạn tháng 1/2020) giảm 10 CNY (khoảng 1,48 USD) xuống 3.577 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 24 CNY xuống 3.687 CNY/tấn.
Khối lượng quặng sắt nhập khẩu lưu tại các cảng biển Trung Quốc trong tuần qua đạt mức cao nhất kể từ tháng 4, theo SteelHome. Còn theo số liệu của Refinitiv, quặng lượng đang lưu tại cảng Hedland (Australia) để xuất sang Trung Quốc tăng 5,2% lên 40,2 triệu tấn trong tháng 8/2020 so với tháng trước đó.
Những lo ngại về nguồn cung khan hiếm đã giảm bớt khi hãng khai thác mỏ Vale SA của Brazil có kế hoạch tăng công suất sản xuất quặng hàng năm lên 450 triệu tấn, từ mức 318 triệu tấn hiện nay. Trong khi đó, thị trường dự đoán nhu cầu thép tại Trung Quốc sẽ mạnh trong mùa Hè này, nhưng thực tế đã không như vậy.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương kỳ hạn tương lai trên sàn Chicago tiếp tục tăng do nhu cầu mạnh từ Trung Quốc. Giá ngô và lúa mì cũng đồng loạt đi lên.
Kết thúc phiên giao dịch, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2020 17-1/4 US cent lên 10,28-1/2 USD/bushel, sau khi có thời điểm đạt 10,32-1/4 USD, mức cao nhất kể từ tháng 5/2018. Giá ngô kỳ hạn tháng 12 cũng tăng 3-1/2 US cent lên 3,75-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 14-1/4 US cent lên 5,56-1/4 USD/bushel.
Tại các thị trường khác, giá lúa mì cũng đang tăng. Trong ngày 16/9, Ai Cập – nhà nhập khẩu lúa mì lớn trên thế giới - đã đặt mua 235.000 tấn lúa mì Nga và Ba Lan với giá cao hơn từ 8 đến 10 USD/tấn so với giá trả tại cuộc đấu thầu quốc tế trước đó của chính Ai Cập (hôm 3/9).
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, trong 10 ngày qua, Mỹ đã bán 260.000 tấn đậu tương cho Trung Quốc và 360.500 tấn cho địa chỉ không xác định.
Giá đường tăng phiên thứ 3 liên tiếp, lên mức cao nhất 2 tuần giữa bối cảnh có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu mạnh đối với đường tinh luyện, và do giá dầu tăng. Đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,27 US cent (2,2%) lên 12,62 US cents/lb, cao nhất trong vòng 2 tuần; đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 10,2 USD (2,8%) lên 368,20 USD/tấn, cao nhất trong vòng một tháng.
Các thương gia cho biết nhu cầu đường trắng đã tăng trở lại, dấu hiệu cho thấy nhu cầu mua hàng physical đang ở mức cao. Đồng real Brazil đang ở mức giá cao nhất so với USD kể từ tháng 7 và lượng đường các nhà máy bán ra qua các hợp đồng kỳ hạn tương lai trên sàn New York giảm cũng góp phần đẩy giá tăng lên.
Giá cà phê arabica giảm phiên thứ 4 liên tiếp xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 8 do thời tiết ở Brazil chuyển hướng tốt lên. Kết thúc phiên, arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 1,85 US cents, hay 1,5%, xuống 1,18 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 5 USD (0,4%) xuống 1.387 USD/tấn.
Arabica đã mất khoảng 10% giá trị trong tuần này do dự báo Brazil sẽ có mưa, thuận lợi cho cây cà phê phát triển trong niên vụ 2021. Đây là cơ sở để Citi dự báo nguồn cung cà phê thế giới sẽ dư thừa trong vụ 2020/21.
Tại Indonesia, theo nguồn tin Reuters, một thương gia báo mức cộng giá cà phê robusta Sumatra ở tỉnh Lampung hiện vững ở mức 20-50 USD/tấn như cách đây một tuần (đối với hợp đồng kỳ hạn tháng 11), trong khi đó một thương gia khác báo mức cộng tăng lên 160 USD/tấn, từ khoảng 150 USD/tấn cách đây một tuần.
Tại ở Việt Nam, giá cà phê tuần này vững do nguồn cung không còn nhiều trước khi đến vụ thu hoạch mới, nhưng nhu cầu yếu hạn chế đà tăng giá.
Tại khu vực Tây Nguyên, người trồng cà phê bán loại nhân xô giá 34.200-34.500 đồng (1,47- 1,49 USD)/kg, so với mức 34.000-34.500 đồng cách đây một tuần; cà phê robusta loại 2 (5% đen và vỡ) giá cộng 70 – 80 USD/tấn so với kỳ hạn tháng 11 trên sàn London.
Reuters dẫn lời một thương gia Việt Nam cho hay, cả cung và cầu lúc này đều rất thấp, và các thương lái có tâm lý chờ đợi đến vụ thu hoạch mới (sắp đến), giữa bối cảnh lượng cà phê người trồng đang tích trữ còn rất ít.
Giá dầu thực vật trên thị trường Châu Á đồng loạt tăng. Tại Malaysia, dầu cọ kỳ hạn giao sau đạt mức cao nhất 8 tháng, trong khi đó tại Trung Quốc, giá mặt hàng này cũng tăng bởi nhu cầu mạnh khi nước này sắp bắt đầu tuần lễ hội quan trọng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu cọ kỳ hạn tháng 12 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 67 ringgit (2,3%) lên 2.976 ringgit (719,36 USD)/tấn, là phiên tăng thứ 3 liên tiếp. Trước đó, lúc đầu phiên vừa qua, giá hợp đồng này đã tăng 3,06% lên 3,002 ringgit, cao nhất kể từ ngày 15/1.
Xu hướng tăng xuất phát từ nhu cầu mạnh ở Trung Quốc – nước nhập khẩu dầu cọ lớn thứ 2 thế giới – trước Tết Trung thu và Tuần lễ vàng (từ 1 đến 10/10). Giá dầu đậu tương trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) tăng 2,72% trong phiên vừa qua, trong khi dầu cọ tăng 1,96%.
Giá cao su kỳ hạn tương lại trên thị trường Nhật Bản tăng lên mức cao nhất 2 tuần sau khi Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) nâng dự báo về triển vong nền kinh tế nước này.
Tại sàn Osaka, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,7 JPY (0,4%) lên 185,3 JPY/tấn, cao nhất kể từ 2/9. Tuy nhiên, trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 1/2021 giảm 0,3% xuống 12.360 CNY/tấn.
Trong thông báo vừa phát đi, BOJ cho biết: “Kinh tế Nhật Bản vẫn tổn thương nghiêm trọng do Covid-19, nhưng hoạt động kinh doanh đã bắt đầu hồi phục dần”.
Giá hàng hóa thế giới sáng 18/9

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

41,00

+0,03

+0,07%

Dầu Brent

USD/thùng

43,30

+1,08

+2,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.960,00

+780,00

+2,77%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,01

-0,03

-1,66%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

122,31

-0,13

-0,11%

Dầu đốt

US cent/gallon

115,95

-0,03

-0,03%

Dầu khí

USD/tấn

340,00

+14,75

+4,53%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.480,00

+400,00

+0,95%

Vàng New York

USD/ounce

1.953,10

+3,20

+0,16%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.573,00

-5,00

-0,08%

Bạc New York

USD/ounce

27,28

+0,18

+0,66%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,90

+0,30

+0,33%

Bạch kim

USD/ounce

939,72

+0,04

+0,00%

Palađi

USD/ounce

2.332,13

-0,29

-0,01%

Đồng New York

US cent/lb

308,20

+1,10

+0,36%

Đồng LME

USD/tấn

6.777,00

+15,50

+0,23%

Nhôm LME

USD/tấn

1.795,50

+6,00

+0,34%

Kẽm LME

USD/tấn

2.528,00

+31,50

+1,26%

Thiếc LME

USD/tấn

18.275,00

+66,00

+0,36%

Ngô

US cent/bushel

375,25

+3,50

+0,94%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

556,25

+14,25

+2,63%

Lúa mạch

US cent/bushel

272,75

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

12,25

+0,09

+0,74%

Đậu tương

US cent/bushel

1.028,50

+17,25

+1,71%

Khô đậu tương

USD/tấn

335,30

+9,60

+2,95%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,86

-0,05

-0,14%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

531,90

+1,70

+0,32%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.600,00

-2,00

-0,08%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,00

-1,85

-1,54%

Đường thô

US cent/lb

13,23

+0,31

+2,40%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

117,15

+0,75

+0,64%

Bông

US cent/lb

65,85

-0,52

-0,78%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

597,60

-14,40

-2,35%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,70

-2,20

-1,57%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

+0,05

+3,86%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg