Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khoảng 5% giữa bối cảnh số ca mắc COVID-19 tăng cao, làm dấy lên lo ngại tiêu thụ nhiên liệu toàn cầu sẽ giảm sút.
Kết thúc phiên này, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,8 USD (4,38%) xuống 39,31 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc cũng hạ 1,7 USD (3,96%) xuống 41,44 USD/thùng. Cả hai loại dầu này đều chứng kiến phiên giảm giá mạnh nhất trong hai tuần qua.
Giá dầu đi xuống trong bối cảnh lo ngại gia tăng trước xu hướng gia tăng số ca mắc COVID-19, yếu tố có thể làm suy giảm nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu. Số ca mắc COVID-19 trên toàn cầu đã lên tới hơn 30,78 triệu. Ngày 21/9, Thủ tướng Anh Boris Johnson đã xem xét về khả năng phong tỏa xã hội lần thứ hai trong khi số ca mắc COVID-19 ở Tây Ban Nha và Pháp cũng đã tăng.
Gary Cunningham, Giám đốc nghiên cứu thị trường tại Tradition Energy - trụ sở tại Stamford, Connecticut, cho biết hiện các thông tin về triển vọng tiêu thụ nhiên liệu máy bay đều có vẻ bất lợi, cho thấy bức tranh kinh tế toàn cầu có vẻ không còn “sáng sủa” như những nhận định trước đó.
Mặc dù vậy, tâm lý lạc quan được củng cố bởi hy vọng cải thiện việc tuân thủ thỏa thuận cắt giảm sản lượng giữa các thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu liên minh, còn gọi là OPEC+.
Goldman Sachs vẫn giữ nguyên dự báo giá dầu Brent đạt 49 USD/thùng vào cuối năm 2020 và 65 USD/thùng vào quý III/2021, bất chấp những diễn biến bất ổn tại Libya. Trong khi đó, Barclays nâng triển vọng giá dầu Brent năm 2020 lên 43 USD/thùng và 53 USD/thùng vào năm sau.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một tháng trong bối cảnh các nhà đầu tư chờ đợi bài phát biểu của các thành viên trong Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trước Quốc hội Mỹ vào cuối tuần này.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 2,1% xuống 1.909,05 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 12/8; vàng kỳ hạn giảm 2,6% xuống 1.910,60 USD/ounce.
Giá vàng giảm đã gần 10% từ mức cao kỷ lục ghi nhận được hồi đầu tháng 8/2020 giữa bối cảnh hy vọng về các biện pháp kích thích tiếp tục giảm dần. Trong nhiều tuần qua, Quốc hội Mỹ vẫn bế tắc về quy mô, kích thước của gói kích thích kinh tế mới nhằm ứng phó với dịch COVID-19, bên cạnh gói kích thích trị giá 3.000 tỷ USD đã được ban hành thành luật.
Các chỉ số chứng khoán chính trên thị trường Phố Wall (Mỹ) phiên 21/9 đã chạm các mức thấp trong gần bảy tuần. Trong khi đó, chỉ số đồng USD tăng 0,8% so với rổ tiền tệ chính, và ghi nhận mức tăng phần trăm nhiều nhất trong một ngày kể từ ngày 19/3.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 8,3% xuống còn 24,53 USD/ounce, giá bạch kim giao ngay giảm 5,2% xuống 879,48 USD/ounce, sau khi giảm tới 8% lúc đầu phiên, trong khi giá palađi giảm 3,9% xuống 2.265,10 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, gía nhìn chung giảm theo xu hướng giá dầu thô và thị trường chứng khoán châu Âu.
Giá đồng giảm từ mức cao nhất hơn 2 năm do số ca nhiễm Covid-19 tăng ở nhiều nơi, gây lo ngại làm chậm lại quá trình hồi phục kinh tế, kéo theo nhu cầu kim loại sụt giảm. Cuối phiên giao dịch, đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,7% xuống 6.700 USD/tấn, sau khi có thời điểm đạt mức cao nhất kể từ tháng 6/2018 (6.877,5 USD/tấn). Tuy nhiên, giá nickel giảm 2,5% xuống 14.530 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 14.300 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 14/8/2020.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm 3% do nhu cầu từ ngành thép giảm và những quy định chặt chẽ về môi trường. Thành phố sản xuất thép hàng đầu – Đường Sơn – Trung Quốc đã đưa ra các hạn chế hoạt động thiêu kết tại một số nhà máy thép do điều kiện thời tiết bất lợi.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên giảm 2,9% xuống 788,5 CNY (116,49 USD)/tấn, sau khi giảm mạnh 3,3% trong đầu phiên giao dịch. Đối với thép, giá thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 1,6% xuống 3.553 CNY/tấn, giá thép cuộn cán nóng giảm 1,4% xuống 3.677 CNY/tấn và giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 11/2020 giảm 0,3% xuống 14.000 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương, ngô và lúa mì tại Chicago giảm do lo ngại về việc đóng cửa mới khi các trường hợp nhiễm virus corona trên toàn cầu gia tăng. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2020 giảm 21 US cent xuống 10,22-1/2 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 8,75 US cent xuống 3,69-3/4 USD/bushel và giá lúa mì mềm, đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 20-1/4 US cent xuống 5,54-3/4 USD/bushel.
Giá đường giảm sau 4 phiên tăng liên tiếp trong tuần trước đó, do giá dầu và cổ phiếu giảm bởi lo ngại các trường hợp nhiễm virus corona gia tăng. Đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn ICE giảm 0,22 US cent tương đương 1,7% xuống 12,55 US cent/lb, chấm dứt chuỗi tăng 4 phiên liên tiếp; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn London giảm 4,7 USD tương đương 1,3% xuống 366,8 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica giảm phiên thứ 6 liên tiếp xuống mức thấp nhất 1,5 tháng, sau khi có tuần giảm mạnh nhất 22 năm trong tuần trước đó, trong bối cảnh triển vọng cây trồng tại nước sản xuất hàng đầu – Brazil – cải thiện. Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn ICE giảm 1,5 US cent tương đương 1,3% xuống 1,12 USD/lb, sau khi giảm mạnh 14% trong tuần trước đó; giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn London giảm 9 USD tương đương 0,7% xuống 1.347 USD/tấn, trước đó trong phiên chạm mức thấp nhất kể từ đầu tháng 8/2020. Trong tuần trước đó, giá cà phê robusta giảm 5,4%.
Giá hàng hóa thế giới sáng 22/9

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

39,44

+0,13

+0,33%

Dầu Brent

USD/thùng

41,53

+0,09

+0,22%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.710,00

-510,00

-1,75%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,86

+0,02

+1,25%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

117,99

+0,28

+0,24%

Dầu đốt

US cent/gallon

110,73

0,00

0,00%

Dầu khí

USD/tấn

321,75

0,00

0,00%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.030,00

-170,00

-0,39%

Vàng New York

USD/ounce

1.912,30

+1,70

+0,09%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.572,00

-24,00

-0,36%

Bạc New York

USD/ounce

24,48

+0,09

+0,38%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,50

-1,40

-1,52%

Bạch kim

USD/ounce

885,23

-1,12

-0,13%

Palađi

USD/ounce

2.274,96

-0,87

-0,04%

Đồng New York

US cent/lb

304,30

+1,10

+0,36%

Đồng LME

USD/tấn

6.691,50

-121,00

-1,78%

Nhôm LME

USD/tấn

1.779,50

-13,00

-0,73%

Kẽm LME

USD/tấn

2.458,50

-79,50

-3,13%

Thiếc LME

USD/tấn

18.100,00

-15,00

-0,08%

Ngô

US cent/bushel

369,50

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

554,25

-0,50

-0,09%

Lúa mạch

US cent/bushel

283,50

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

12,22

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

1.021,50

-1,00

-0,10%

Khô đậu tương

USD/tấn

337,60

-0,50

-0,15%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,27

+0,07

+0,20%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

526,00

-0,40

-0,08%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.629,00

-12,00

-0,45%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

112,00

-1,50

-1,32%

Đường thô

US cent/lb

13,13

-0,25

-1,87%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

115,70

-2,60

-2,20%

Bông

US cent/lb

65,45

+0,21

+0,32%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

549,60

-29,00

-5,01%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,50

-2,80

-2,00%

Ethanol CME

USD/gallon

1,33

-0,03

-2,21%