Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 3% do số ca mắc COVID-19 tăng mạnh ở Mỹ và châu Âu, cộng với việc sản lượng dầu thô của Libya phục hồi làm thị trường thêm lo ngại về tình trạng dư cung, mặc dù cơn bão số 27 đang hình thành ở Vịnh Mexico, đe dọa tạm dừng hoạt động các cơ sở sản xuất dầu ngoài khơi của Mỹ.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giảm 1,31 USD (3,1%) xuống 40,46 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,29 USD (3,2%) xuống 38,56 USD/thùng. Xu hướng giảm giá tiếp diễn sau đã mất khoảng 2,5% trong tuần vừa qua.
Trong hai ngày 23 và 24/10, số ca mắc COVID-19 mới tại Mỹ đạt mức cao chưa từng thấy, còn tại Pháp, số ca mắc COVID-19 mới cũng chạm mức kỷ lục 50.000 người vào ngày 25/10. Diễn biến phức tạp này của đại dịch COVID-19 gây quan ngại rằng nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu sẽ suy giảm trong thời gian tới.
Bjornar Tonhaugen, chuyên gia hàng đầu thị trường dầu mỏ thuộc Rystad Energy, cho rằng phiên vừa qua là một ngày "đen tối" của thị trường dầu mỏ.
Tổng thư ký Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) nhận định sự phục hồi của thị trường dầu mỏ có thể mất nhiều thời gian hơn hy vọng do các đợt lây nhiễm COVID-19 gia tăng trên khắp thế giới.
Góp phần làm gia tăng tình trạng dư thừa nguồn cung, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Libya đã tuyên bố chấm dứt tình trạng bất khả kháng đối với hoạt động xuất khẩu dầu mỏ từ hai cảng chính và cho biết sản lượng dầu của nước này sẽ đạt 1 triệu thùng/ngày trong những tuần tới, mức tăng mạnh hơn dự báo của nhiều nhà phân tích, khiến nguồn cung trên thị trường càng thêm dồi dào.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hầu như không biến động trong phiên 26/10, khi giới đầu tư lo lắng về sự gia tăng đột biến trong số ca mắc COVID-19 mới trên toàn cầu.
Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.904,60 USD/ounce; vàng giao sau vững ở mức 1.905,70 USD/ounce.
Phillip Streible, chiến lược gia thị trường thuộc công ty môi giới đầu tư Blue Line Futures, cho biết vàng đang bị “mắc kẹt” trong khoảng 1.930 - 1.880 USD/ounce, giữa bối cảnh nhà đầu tư đang chờ đợi tín hiệu từ cuộc bầu cử cùng làn sóng lây nhiễm mới của đại dịch COVID-19.
Cuộc chạy đua vì chiếc ghế Tổng thống Mỹ đang đẩy USD mạnh lên, làm giảm sức hấp dẫn của vàng như một kênh trú ẩn an toàn. Phiên này, chỉ số đồng USD – thước đo sức khỏe của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác - đã tăng 0,3% và khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Ngày 25/10, Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi cho biết chính quyền Tổng thống Donald Trump đang xem xét kế hoạch cứu trợ mới nhất để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi từ đại dịch COVID-19. Bà dự kiến Nhà Trắng sẽ đưa ra phản ứng vào ngày 26/10 (theo giờ địa phương). Vàng thường được hưởng lợi từ các biện pháp kích thích kinh tế từ các ngân hàng trung ương, vì kim loại quý này được coi là “hàng rào” chống lại lạm phát và mất giá tiền tệ.
Ông Tai Wong, người đứng đầu bộ phận giao dịch phái sinh kim loại quý và cơ bản thuộc ngân hàng BMO cho biết tâm lý thị trường nhìn chung vẫn khá lạc quan. Nhiều người có quan điểm rằng gói kích thích chắc chắn sẽ được đưa ra và đó chỉ là vấn đề thời gian.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 1,4% xuống 24,25 USD/ounce, trong khi giá bạch kim để mất tới 3,5% xuống 869,83 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tiếp tục giảm sang phiên thứ 3 liên tiếp và chạm mức thấp nhất trong gần một tuần khi các nhà đầu tư bán chốt lời bởi lo ngại về số ca nhiễm Covid-19 gia tăng và gói kích thích kinh tế của Mỹ vẫn bị trì hoãn. Kết thúc phiên giao dịch, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,3% xuống còn 6.780 USD/tấn, đầu phiên có lúc xuống 6.758,50 USD, mức thấp nhất kể từ 20/10.
Mặc dù đang chịu áp lực giảm, các nhà đầu tư đồng vẫn theo dõi sát sao thị trường tài chính toàn cầu, nhất là kế hoạch kinh tế 5 năm tới của Trung Quốc.
Cũng trong phiên vừa qua, giá nickel giảm 0,3% xuống 15.665 USD/tấn, nhôm giảm 1,1% xuống 1.822,50 USD/tấn, kẽm giảm 0,7% xuống 2.539,50 USD/tấn, chì tăng 0,3% lên 1.781,50 USD/tấn và thiếc giảm 1,7% xuống 18.095 USD/tấn.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất 4 tuần trong phiên giao dịch vừa qua do lượng lưu kho tại các cảng biển Trung Quốc tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 2/2020 và lo ngại triển vọng nhu cầu trong tương lai sẽ không khả quan.
Kết thúc phiên, quặng kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên giảm 3,3% xuống 760 CNY (113,72 USD)/tấn. Lúc đầu phiên, giá giảm 3,8% xuống mức thấp nhất kể từ 25/9.
Giá quặng sắt trên sàn Singapore (kỳ hạn tháng 11/2020) cũng giảm 1,3% xuống 111,6 USD/tấn, thấp nhất kể từ 29/9.
Lượng quặng sắt nhập khẩu đang lưu tại các cảng biển Trung Quốc đã tăng tuần thứ 5 liên tiếp, lên 127,8 triệu tấn tính đến 23/10.
Sản lượng thép Trung Quốc đang có xu hướng tăng chậm lại.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ đã tăng phiên thứ 6 liên tiếp, lên mức cao nhất trong vòng hơn 4 năm do nhu cầu mạnh từ phía Trung Quốc.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương đã tăng 4 US cent lên 10,87-3/4 USD/bushel vào cuối phiên, sau khi có thời điểm đạt 10,89-3/4 USD/bushel, mức cao nhất kể từ tháng 7/2016.
Các thương nhân đang theo dõi sát nhu cầu của Trung Quốc vì nước nhập khẩu đậu tương hàng đầu thế giới này gần đây đã tăng cường mua các sản phẩm nông nghiệp của Mỹ. Bộ Nông nghiệp Mỹ xác nhận đã có hợp đồng bán 120.700 tấn đậu tương Mỹ cho khách hàng không xác định và 135.000 tấn khô đậu tương cho Philippines.
Tuy nhiên, thời tiết ở Brazil đã có mưa, giúp giảm khô hạn và làm hạn chế đà tăng giá của đậu tương.
Trái với đậu tương, giá ngô giảm khỏi mức cao nhất 14 tháng, giá lúa mì cũng giảm do thời tiết ở Mỹ tốt lên. Cụ thể, giá ngô giảm 1-1/2 US cent xuống 4,17-3/4 USD/bushel, giá lúa mì giảm 12-3/4 US ecnt xuống 6,20 USD/bushel.
Theo công ty tư vấn nông nghiệp Sovecon, điều kiện thời tiết ở Nga đã được cải thiện, thuận lợi cho vụ lúa mì năm 2021.
Giá đường thô phiên vừa qua tăng nhẹ do thị trường đồn đoán Ấn Độ sẽ giảm mức trợ cấp cho xuất khẩu đường năm 2021 do khó khăn về tài chính vì Covid-19. Cụ thể, hợp đồng đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,05 US cent (0,3%) lên 14,77 US cent/lb. Đường trắng cũng đi lên, với hợp đồng kỳ hạn tháng 12 tăng 1 USD (0,3%) lên 396,6 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 tăng 1,05 US cent (1%) lên 1,0665 USD/lb, trong khi robusta giao tháng 1/2021 tăng 8 USD (0,6%) lên 1.313 USD/tấn. Thời tiết ở Brazil đã có mưa, giúp cải thiện độ ẩm của đất và có thể giúp các nông trường cà phê hồi phục, chuẩn bị cho một vụ mùa mới.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản phiên vừa qua tăng mạnh nhất trong vòng 12 năm do hy vọng nhu cầu của Trung Quốc sẽ mạnh lên khi nền kinh tế tiếp tục hồi phục sau đại dịch.
Trên sàn Osaka, cao su kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 18,3 JPY (7,9%) lên 250,4 JPY (2,39 USD)/kg – cao nhất kể từ đầu năm 2017. Trên sàn Thượng Hải, giá cũng tăng, với kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 3,3% lên 15.350 CNY/tấn.

Giá hàng hóa sáng 27/10

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

38,66

+0,10

+0,26%

Dầu Brent

USD/thùng

40,46

-1,31

-3,14%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

26.980,00

-190,00

-0,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,02

0,00

-0,07%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

111,16

0,00

0,00%

Dầu đốt

US cent/gallon

112,63

+0,45

+0,40%

Dầu khí

USD/tấn

320,25

-14,75

-4,40%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

41.870,00

-420,00

-0,99%

Vàng New York

USD/ounce

1.903,50

-2,20

-0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.425,00

+14,00

+0,22%

Bạc New York

USD/ounce

24,39

-0,03

-0,12%

Bạc TOCOM

JPY/g

81,70

+0,20

+0,25%

Bạch kim

USD/ounce

876,84

+2,23

+0,25%

Palađi

USD/ounce

2.367,42

+3,52

+0,15%

Đồng New York

US cent/lb

309,20

+0,25

+0,08%

Đồng LME

USD/tấn

6.867,50

-55,00

-0,79%

Nhôm LME

USD/tấn

1.842,50

-4,00

-0,22%

Kẽm LME

USD/tấn

2.558,50

-20,00

-0,78%

Thiếc LME

USD/tấn

18.405,00

-280,00

-1,50%

Ngô

US cent/bushel

417,75

-1,50

-0,36%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

620,00

-12,75

-2,02%

Lúa mạch

US cent/bushel

306,50

+3,00

+0,99%

Gạo thô

USD/cwt

12,44

-0,06

-0,52%

Đậu tương

US cent/bushel

1.083,50

+2,50

+0,23%

Khô đậu tương

USD/tấn

389,60

+3,20

+0,83%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,46

+0,35

+1,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

547,90

-3,10

-0,56%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.492,00

+13,00

+0,52%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

106,65

+1,05

+0,99%

Đường thô

US cent/lb

14,77

+0,05

+0,34%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

114,45

+0,95

+0,84%

Bông

US cent/lb

72,11

+0,82

+1,15%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

503,00

-12,30

-2,39%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,40

+6,20

+3,78%

Ethanol CME

USD/gallon

1,57

+0,05

+3,09%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg