Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm nhẹ giữa bối cảnh số ca nhiễm COVID-19 tăng mạnh ở một số nền kinh tế lớn và cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vẫn chưa có kết quả cuối cùng.
Kết thúc phiên giao dịc, giá dầu Brent giảm 30 US cent (0,7%) xuống 40,93 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 36 US cent (0,9%) xuống 38,79 USD/thùng.
Jim Ritterbusch, Giám đốc trung tâm Ritterbusch & Associates ở Galena, Illinois cho rằng thị trường dầu mỏ vẫn sẽ phải đối mặt với những bất ổn bởi nhu cầu sụt giảm do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Ủy ban điều hành EU giảm dự báo kinh tế và cho biết nền kinh tế sẽ không hồi phục trở lại mức trước virus cho đến năm 2023.
Theo trang thống kê worldometers.info, tính đến 7 giờ 30 phút ngày 6/11 (theo giờ Việt Nam), toàn thế giới đã ghi nhận 49.005.797 ca mắc COVID-19, trong đó có 1.238.788 ca tử vong. Chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất vẫn là Mỹ với 240.922 ca tử vong trong tổng số 9.914.736 ca mắc. Nhiều nước châu Âu ghi nhận số ca nhiễm mới trong ngày ở mức cao chưa từng thấy.
Ngày 5/11, nhiều hãng truyền thông của Mỹ đã điều chỉnh kết quả sơ bộ cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2020. Theo ông John Hultquist - Giám đốc phân tích tình báo tại Công ty an ninh mạng FireEye có trụ sở tại Mỹ, càng gần đến thời điểm ngã ngũ về kết quả bầu cử, tin giả sẽ xuất hiện càng nhiều và gây nhiễu loạn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất một tháng rưỡi trước triển vọng ngày càng tăng về chiến thắng của ông Joe Biden trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng lên 1.952,41 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 21/9; vàng giao sau tăng 2,7% và đóng cửa ở mức 1.946,80 USD/ounce.
Nhà giao dịch Michael Matousek thuộc U.S. Global Investors cho biết, triển vọng giành chiến thắng của ứng viên Joe Biden thuộc đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ củng cố dự đoán về một gói kích thích lớn hơn và đè nặng lên đồng USD. Phiên này, đồng USD giảm xuống mức thấp nhất trong hai tuần.
Ngoài cuộc bầu cử tại Mỹ, thị trường cũng đang chờ quyết định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sau cuộc họp kéo dài hai ngày 4-5/11. Nhà phân tích Suki Cooper của Standard Chartered nhận định bên cạnh cuộc bầu cử, bối cảnh vĩ mô cũng là nhân tố hỗ trợ giá vàng, trước dự báo về sự suy yếu của đồng USD, mức lãi suất thực tế vẫn ở vùng âm và gói kích thích bổ sung.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 4,9% lên 25,09 USD/ounce, giá bạch kim tăng 2,2% lên 888,33 USD/ounce, trong khi giấ tăng 3,4% lên 2.365,76 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng và kẽm tăng do USD giảm và các nhà đầu tư chờ đợi nhiều hơn về các biện pháp kích thích từ ngân hàng trung ương, với làn sóng đóng cửa mới đe dọa tăng trưởng kinh tế. Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,1% lên 6.845,5 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm mức thấp 6.780 USD/tấn. Giá kẽm trên sàn London tăng 0,6% lên 2.610 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 5/2019.
Tính đến nay, giá đồng tăng hơn 50% kể từ mức thấp nhất năm 2020 trong tháng 3/2020, do nhu cầu Trung Quốc tăng mạnh, sự gián đoạn nguồn cung, kỳ vọng về các biện pháp kích thích kinh tế và đồng USD suy yếu.
Giá quặng sắt tại Đại Liên và Singapore đều giảm, do xuất khẩu quặng sắt tại nước sản xuất hàng đầu – Australia – tăng trong tháng 10/2020, thúc đẩy tồn trữ quặng sắt tại các cảng của Trung Quốc tăng. Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải giá thép cây tăng 0,3%, thép cuộn cán nóng tăng 0,5%, thép không gỉ giảm 0,5%.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm 1,1% xuống 783 CNY (117,82 USD)/tấn, sau khi giảm 2,5% trong đầu phiên giao dịch.
Có khoảng 2/3 lượng quặng sắt xuất khẩu của Australia sang Trung Quốc – nước sản xuất thép hàng đầu thế giới và mặt hàng này không bị ảnh hưởng bởi căng thẳng giữa Bắc Kinh và Canberra . Xuất khẩu quặng sắt của Australia trong tháng 10/2020 dự kiến sẽ tăng lên 78 triệu tấn, so với 74 triệu tấn tháng 9/2020.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 4 năm do thời tiết khô tại khu vực Nam Mỹ, làm gia tăng mối lo ngại về nguồn cung tại thời điểm nhu cầu Trung Quốc tăng mạnh. Đồng thời, giá ngô và lúa mì đạt mức cao nhất hơn 1 tuần do nhu cầu tăng mạnh và lo ngại nguồn cung.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 17-1/2 US cent lên 11,03-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 11,12-3/4 USD/bushel - cao nhất kể từ ngày 14/7/2016. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 4 US cent lên 4,09-1/4 USD/bushel và giá lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 3-1/4 US cent lên 6,09-1/4 USD/bushel, cả hai đều đạt mức cao nhất kể từ ngày 27/10/2020.
Thời tiết khô ảnh hưởng đến cây trồng ngô và đậu tương tại Nam Mỹ, cũng như cây trồng lúa mì vụ đông tại Mỹ và Nga, đe dọa nguồn cung suy giảm khi nhu cầu Trung Quốc tăng mạnh.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn ICE giảm 0,17 US cent xuống 14,48 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 8 tháng (15,23 US cent/lb) trong ngày 3/11/2020. Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn London giảm 1,9 USD xuống 389,9 USD/tấn.
Đối với mặt hàng cà phê, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 2,95 US cent tương đương 2,9% lên 1,0595 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tháng trong ngày 2/11/2020.
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 26 USD tương đương 2% lên 1.339 USD/tấn.
Sản lượng cà phê Brazil trong niên vụ 2021/22 sẽ giảm 14-21%, do mưa dưới mức trung bình và sự thay đổi chu kỳ sản xuất cà phê Arabica, Ngân hàng đầu tư Itau BBA cho biết.
Ở Châu Á, thị trường cà phê Việt Nam giao dịch trầm lắng trước vụ thu hoạch mới được dự kiến vào giữa tháng 11/2020. Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 170-180 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn London , giảm so với mức cộng 170-200 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá dao động 33.200 VND (1,43 USD)/kg, so với mức giá 32.400-34.000 VND/kg cách đây 1 tuần.
Trung tâm dự báo thời tiết quốc gia Việt Nam cho biết khu vực trồng cà phê chủ yếu sẽ có mưa trong ít nhất 1 tuần nữa, điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình hái và phơi cà phê.
Tại Indonesia , giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 170 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn London , không thay đổi so với cách đây 1 tuần, ngay cả khi vụ thu hoạch đã kết thúc.
Giá cao su trên sàn Osaka tăng gần 3%, hồi phục từ mức thấp nhất 2 tuần trong phiên trước đó, do giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải và thị trường chứng khoán Tokyo tăng mạnh, thúc đẩy xu hướng thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2021 trên sàn OSE tăng 6,1 JPY tương đương 2,9% lên 216,3 JPY (2,1 USD)/kg, sau khi giảm gần 9% xuống mức thấp nhất kể từ ngày 21/10/2020 trong phiên trước đó. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Thượng Hải tăng 100 CNY lên 15.010 CNY (2.266 USD)/tấn.
Trong tháng 10/2020, giá cao su đạt mức cao nhất hơn 3 năm do nhu cầu găng tay bảo hộ tăng bởi khủng hoảng Covid-19, ngành công nghiệp Trung Quốc hồi phục, nguồn cung thắt chặt và các nhà sản xuất bổ sung dự trữ.
Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

38,48

-0,31

-0,80%

Dầu Brent

USD/thùng

40,93

-0,30

-0,73%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

26.930,00

-120,00

-0,44%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,95

+0,00

+0,14%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

111,25

-0,34

-0,30%

Dầu đốt

US cent/gallon

116,36

-0,60

-0,51%

Dầu khí

USD/tấn

327,00

-0,50

-0,15%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

41.950,00

-220,00

-0,52%

Vàng New York

USD/ounce

1.948,30

+1,50

+0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.481,00

+72,00

+1,12%

Bạc New York

USD/ounce

25,33

+0,13

+0,53%

Bạc TOCOM

JPY/g

83,70

+2,30

+2,83%

Bạch kim

USD/ounce

895,68

-1,09

-0,12%

Palađi

USD/ounce

2.385,09

+0,19

+0,01%

Đồng New York

US cent/lb

311,10

+0,10

+0,03%

Đồng LME

USD/tấn

6.852,50

+15,00

+0,22%

Nhôm LME

USD/tấn

1.897,50

-11,00

-0,58%

Kẽm LME

USD/tấn

2.615,50

+22,00

+0,85%

Thiếc LME

USD/tấn

18.240,00

+50,00

+0,27%

Ngô

US cent/bushel

409,25

+4,00

+0,99%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

609,25

+3,25

+0,54%

Lúa mạch

US cent/bushel

302,00

+5,25

+1,77%

Gạo thô

USD/cwt

12,43

+0,15

+1,22%

Đậu tương

US cent/bushel

1.103,75

+17,50

+1,61%

Khô đậu tương

USD/tấn

387,80

+2,10

+0,54%

Dầu đậu tương

US cent/lb

35,47

+1,08

+3,14%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

550,40

+4,60

+0,84%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.318,00

+27,00

+1,18%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

105,95

+2,95

+2,86%

Đường thô

US cent/lb

14,48

-0,17

-1,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

114,65

-1,05

-0,91%

Bông

US cent/lb

70,07

-0,16

-0,23%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

555,70

+16,60

+3,08%

Cao su TOCOM

JPY/kg

156,10

-1,50

-0,95%

Ethanol CME

USD/gallon

1,40

+0,05

+3,70%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg