Tuy nhiên, dịch Covid-19 đang lan rộng, nhiều nước siết chặt các biện pháp chống dịch có thể sẽ làm giảm sút nhu cầu hàng hóa trong thời gian tới.
Nước Anh đang bước vào đợt phong tỏa ngăn chặn COVID-19 lần thứ ba từ ngày 5/1 giữa lúc số ca mắc COVID-9 tiếp tục gia tăng mạnh, trong khi thành phố New York (Mỹ) đã phát hiện trường hợp đầu tiên nhiễm biến thể mới của virus SARS-CoV-2 gây ra dịch COVID-19.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng gần 5% sau thông tin Saudi Arabia tự nguyện cắt giảm sản lượng khai thác dầu mỏ.
Cụ thể, dầu Brent trên sàn London tăng 2,51 USD (hay 4,9%) lên 53,60 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) cũng tăng 2,31 USD (4,9%) lên 49,93 USD/thùng.
Trong ngày họp 5/1 của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và những quốc gia sản xuất dầu liên minh, còn được gọi OPEC+, Saudi Arabia cho biết sẽ cắt giảm khai thác tự nguyện 1 triệu thùng/ngày vào tháng Hai và tháng Ba, nhằm thuyết phục phần lớn các thành viên khác giữ sản lượng ổn định, trong bối cảnh lo ngại các lệnh phong tỏa ngăn chặn sự lây lan của dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 mới sẽ tác động xấu tới nhu cầu thị trường năng lượng.
Trong khi đó, Viện Dầu mỏ Mỹ thông báo dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần qua (tính đến ngày 1/1) giảm 1,7 triệu thùng, xuống khoảng 491,3 triệu thùng, còn dự trữ xăng và các sản phẩm chưng cất khác đều tăng.
Các lệnh phong tỏa ngăn chặn sự lây lan của đại dịch COVID-19, vốn ảnh hưởng nặng nề đến nhu cầu năng lượng trong đầu năm 2020, đang dần được triển khai trở lại ở một số nước trên thế giới.
Có thông tin cho hay, OPEC+ đang nghiên cứu một số kịch bản cho sản xuất dầu trong thời gian tới, bao gồm: tăng sản lượng, giữ nguyên sản lượng hoặc cắt giảm sản lượng thêm 500.000 thùng/ngày trong tháng 2.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng lên mức cao nhất 2 tháng trong phiên giao dịch 5/1, do đồng USD yếu đi và những lo ngại ngày càng gia tăng về đại dịch COVID-19.
Theo đó, giá vàng giao ngay tăng 0,4%, lên 1.949,59 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức cao nhất kể từ ngày 9/11 là 1.952,36 USD/ounce; vàng kỳ hạn tương lai cũng tăng nhẹ lên 1.954,40 USD/ounce.
Chris Gaffney, người đứng đầu bộ phận phân tích thị trườn thế giới tại TIAA Bank nhận định đồng USD yếu là một trong những nhân tố chính hỗ trợ giá vàng trong những ngày giao dịch đầu tiên của năm 2021, và thêm rằng, với những rủi ro liên quan đến dịch COVID-19, trong ngắn hạn giới đầu tư vẫn sẽ đổ tiền vào các tài sản an toàn như vàng.
Chỉ số đồng USD hiện dao động gần với mức thấp nhất kể từ tháng 4/2018, khiến vàng trở nên hấp dẫn đối với những người nắm giữ loại tiền tệ khác.
Michael Matousek, nhà giao dịch cấp cao tại US Global Investors cho biết, việc các ngân hàng trung ương trên toàn cầu không có dự định nâng lãi suất cũng góp phần đưa giá vàng đi lên.
Tâm lý thận trọng càng chiếm ưu thế khi các nhà đầu tư chờ đợi kết quả của cuộc bầu cử sắp diễn ra tại ở bang Georgia để nắm quyền kiểm soát Thượng viện Mỹ, và cùng với đó là khả năng ngăn chặn hoặc thúc đẩy Chương trình nghị sự của Tổng thống đắc cử Joe Biden.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,1%, lên 27,50 USD/ounce; giá palađi tăng 3,9%, lên 2.465,18 USD/ounce, sau khi bật tăng mạnh 6% vào đầu phiên; trong khi giá bạch kim tăng 3,5%, lên 1.107,25 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên sát mức cao nhất 8 năm do USD suy yếu, dự đoán nhu cầu mạnh tại nước tiêu thụ hàng đầu, Trung Quốc và hàng tồn kho đang giảm.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch London (LME) tăng 1,8% lên 7.999 USD/tấn. Giá đồng đã tăng vượt 8.000 USD trong tháng trước, mức cao nhất kể từ tháng 2/2013.
USD thấp đang hỗ trợ giá đồng và nhà đầu tư đang tập trung vào vaccine với hy vọng sẽ giúp kinh tế tăng trưởng mạnh hơn trong trung hạn.
Dự trữ đồng trên sàn LME ở mức 105.425 tấn giảm hơn 40% kể từ giữa tháng 10/2020 và thấp nhất kể từ tháng 9/2020.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt Trung Quốc tăng phiên thứ 3 liên tiếp lên mức cao nhất một tuần, do lo ngại về nguồn cung khan hiếm đã đẩy giá quặng sắt giao ngay tăng tiếp trên 160 USD/tấn. Quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 4% lên 1.039 CNY/tấn, sau khi trước đó đạt 1.043,5 CNY, cao nhất kể từ ngày 29/12/2020; giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 1,2%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,5% và thép không gỉ tăng 2,6%.
Lượng quặng sắt lưu kho ở các cảng Trung Quốc giảm xuống còn 126,75 triệu tấn tính tới ngày 31/12/2020, giảm 4,1% so với mức đỉnh 132,15 triệu tấn đã ghi nhận trong ngày 13/11/2020, theo SteelHome. Sau hai tuần tăng, khối lượng quặng sắt xuất đi từ 19 cảng và 16 công ty khai thác tại Australia và Brazil – những nhà cung cấp lớn nhất cho Trung Quốc – đã từ ngày 28/12/2020 tới ngày 3/1/2021 giảm hơn 1 triệu tấn hay 4,3% so với tuần trước.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì tại Chicago đóng cửa ở mức cao nhất 6 năm do hoạt động mua mạnh, và tác động tích cực từ thị trường đậu tương và ngô.
Kết thúc phiên giao dịch, lúa mì đỏ mềm vụ Đông kỳ hạn giao 3 tăng 12 US cent lên 6,54 USD/bushel sau khi có lúc chạm 6,64-1/2 USD, giá cao nhất kể từ tháng 12/2014.
Giá đậu tương trên sàn giao dịch Chicago tăng chạm mới cao nhất 6,5 năm do việc mua mạnh mang tính chất kỹ thuật và lo lắng về các nguồn cung ở Nam Mỹ.
Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 3 đóng cửa tăng 34 US cent lên 13,47 USD/bushel, trong phiên đã đạt mức 13,73-14 USD, cao nhất theo biểu đồ của hợp đồng đậu tương được giao dịch nhiều nhất kể từ tháng 6/2014.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 cũng tăng 0,36 US cent hay 2,3% lên 16,12 US cent/lb sau khi tăng lên mức 16,15 US cent trong phiên liền trước, cao nhất kể từ tháng 5/2017; đường trắng kỳ hạn tháng 3 tăng 7 USD hay 1,6% lên 437,3 USD/tấn.
Thị trường đường đang lạc quan bởi thông tin nguồn cung khan hiếm trong ngắn hạn sau một vụ mùa yếu kém ở Thái Lan trong khi sản lượng của Brazil sẽ không tăng trở lại cho tới tháng 4.
Tuy nhiên, xuất khẩu từ Ấn Độ tăng hạn chế đà tăng giá đường. Các nhà máy đường Ấn Độ đã sản xuất 11 triệu tấn đường trong 3 tháng đầu niên vụ 2020/21 bắt đầu từ ngày 1/10/2020, tăng 42% so với một năm trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 chốt phiên giảm 1,05 US cent hay 0,8% xuống 1,2510 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 3 đóng cửa giảm 7 USD hay 0,5% xuống 1.365 USD/tấn.
Các đại lý cho biết dự trữ của sàn giao dịch tăng bởi nguồn cung cấp tăng ở Brazil đã bổ sung cho áp lực giá.
Giá cao su tại Nhật Bản quay đầu giảm nhẹ sau khi tăng ở trong phiên trước đó, trong bối cảnh thị trường không rõ ràng về cuộc chạy đua nước rút vào Thượng viện Mỹ tại bang Georgia vào cuối ngày.
Hợp đồng cao su giao tháng 6 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 1,3 JPY hay 0,5% xuống 239,1 JPY/kg, giá đã tăng 6% trong ngày giao dịch đầu tiên của năm mới. Giá cao su giao tháng 5 tại Thượng Hải tăng 1,7% đóng cửa tại 14.415 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 6/1

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

50,10

+0,17

+0,34%

Dầu Brent

USD/thùng

53,91

+0,31

+0,58%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

33.500,00

+1.460,00

+4,56%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,68

-0,02

-0,78%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

145,17

-0,04

-0,03%

Dầu đốt

US cent/gallon

152,40

+0,51

+0,34%

Dầu khí

USD/tấn

434,75

+3,00

+0,69%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

48.520,00

+1.500,00

+3,19%

Vàng New York

USD/ounce

1.951,90

-2,50

-0,13%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.447,00

+23,00

+0,36%

Bạc New York

USD/ounce

27,62

-0,02

-0,07%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,90

+0,20

+0,22%

Bạch kim

USD/ounce

1.098,60

-14,98

-1,35%

Palađi

USD/ounce

2.457,84

-12,86

-0,52%

Đồng New York

US cent/lb

366,35

+2,40

+0,66%

Đồng LME

USD/tấn

8.002,00

+141,50

+1,80%

Nhôm LME

USD/tấn

2.040,50

+9,00

+0,44%

Kẽm LME

USD/tấn

2.813,00

+21,00

+0,75%

Thiếc LME

USD/tấn

21.185,00

+136,00

+0,65%

Ngô

US cent/bushel

497,25

+5,50

+1,12%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

656,50

+2,50

+0,38%

Lúa mạch

US cent/bushel

361,75

-1,50

-0,41%

Gạo thô

USD/cwt

12,64

+0,03

+0,24%

Đậu tương

US cent/bushel

1.362,50

+15,50

+1,15%

Khô đậu tương

USD/tấn

437,20

+5,40

+1,25%

Dầu đậu tương

US cent/lb

43,83

+0,23

+0,53%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

648,70

+2,80

+0,43%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.514,00

-38,00

-1,49%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

125,10

-1,05

-0,83%

Đường thô

US cent/lb

16,12

+0,36

+2,28%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

124,10

+1,25

+1,02%

Bông

US cent/lb

80,35

+1,38

+1,75%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

668,60

-32,00

-4,57%

Cao su TOCOM

JPY/kg

160,50

+0,90

+0,56%

Ethanol CME

USD/gallon

1,57

0,00

0,00%

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg