Trên thị trường năng lượng, giá dầu hồi phục mặc dù số ca mắc mới dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 ở một số quốc gia đã tác động xấu tới hy vọng về một sự hồi phục ổn định của nhu cầu nhiên liêu toàn cầu.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent tại thị trường London tăng 1,01 USD (tương đương 2,5%) lên 40,79 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tại thị trường New York tăng 1,29 USD (3,5%) lên 38,05 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ ngày 9/9 đã hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới trong năm 2020 từ 8,53 triệu thùng/ngày xuống còn 8,32 triệu thùng/ngày. Trong khi đó, Viện Dầu mỏ Mỹ ngày 9/9 cho hay dự trữ dầu thô của nước này trong tuần qua đã tăng 3 triệu thùng lên 504,1 triệu thùng.
Nhà phân tích thị trường dầu mỏ cao cấp của Rystad Energy, Paola Rodriguez-Masiu, cho hay, khi các nhà sản xuất dầu lớn ở khu vực Trung Đông đang sẵn sàng bán dầu với mức giá thấp hơn thì thị trường “vàng đen” thế giới đương nhiên cũng quan ngại và có động thái tương tự.
DDại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp với số ca mắc mới đang gia tăng ở Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha và một số khu vực ở Mỹ. Tình trạng này có thể khiến sự hồi phục kinh tế thế giới chậm lại và làm giảm nhu cầu đối với các loại nhiên liệu, trong đó có dầu diesel và nhiên liệu máy bay.
Theo ngân hàng Morgan Stanley, các yếu tố nền tảng của thị trường dầu mỏ trong ngắn hạn vẫn còn thiếu chắc chắn: sự hồi phục nhu cầu dầu vẫn chưa ổn định, dự trữ dầu và công suất chưa dùng tới vẫn cao trong khi lợi nhuận của hoạt động lọc dầu đang ở mức thấp.
Thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu kỷ lục của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu liên minh, còn gọi là OPEC+, đã góp phần hỗ trợ giá dầu. Tuy vậy, việc các số liệu kinh tế yếu kém được công bố gần như hàng ngày đã khiến nhu cầu dầu dự báo sẽ duy trì ở mức thấp.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong vòng 1 tuần do USD yếu đi và những lo ngại về sự trì trệ trong tiến trình phát triển vắc-xin phòng ngừa COVID-19 thúc đẩy các nhà đầu tư tìm đến vàng như một tài sản đảm bảo.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.945,2 USD/ounce, trong khi giá vàng giao sau tăng 0,6% lên 1.954,9 USD/ounce.
Đồng USD giảm 0,2% sau khi hãng tin Bloomberg đưa tin các dự báo về tăng trưởng và lạm phát của ECB, dự kiến được công bố trong ngày 10/9 (giờ địa phương), sẽ cho thấy những sự thay đổi đôi chút so với các dự báo được ngân hàng này đưa ra hồi tháng 6/2020. Bob Haberkorn, chiến lược gia về thị trường cấp cao tại RJO Futures, cho biết đồng USD yếu đi là do Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đưa ra đánh giá khá khả quan về triển vọng của nền kinh tế khu vực, qua đó hỗ trợ cho giá vàng.
Các thử nghiệm toàn cầu đối với vắc-xin của AstraZeneca đã bị tạm ngừng do một người tham gia nghiên cứu đã mắc bệnh không rõ nguyên nhân. Tin tức này có thể gián tiếp hỗ trợ giá vàng, do có thể tiếp tục kéo dài suy thoái kinh tế và kỳ vọng thêm các gói kích thích tài chính.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,7% lên 26,88 USD/ounce, trong khi giá palađi tăng 0,8% lên 2.292,98 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do giá sản xuất của Trung Quốc giảm với tốc độ chậm nhất trong 5 tháng, cho thấy sự phục hồi kinh tế đang tiếp tục tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới này và nhu cầu tốt hơn.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) tăng 1% lên 6.736 USD/tấn, sau khi giảm 1,8% trong phiên trước. Kim loại này đã tăng khoảng 50% kể từ giữa tháng 3 và là kim loại có diễn biến tốt nhất trong năm nay.
Lượng đồng lưu kho trên sàn LME giảm 3.125 tấn xuống 73.425 tấn, thấp nhất kể từ tháng 11/2005, trong khi trên sàn Thượng Hải cao nhất kể từ tháng 5. Sự thiếu hụt trên sàn LME đã thúc đẩy chênh lệch giữa giá giao ngay và giá đồng giao sau ba tháng lên tới 27 USD, mức đóng cửa cao nhất kể từ tháng 3/2019. Tuy nhiên, Trung Quốc - ước chiếm một nửa nhu cầu đồng trên toàn cầu - đã trở lại tăng trưởng trong quý 2 năm nay và nhập khẩu đồng với khối lượng kỷ lục trong tháng 7.
Giá thép và quặng sắt tại Trung Quốc giảm trong phiên, theo đó thép không gỉ giảm 4,2% và quặng sắt đóng cửa giảm 3,4%, do lo lắng về sự phục hồi kinh tế toàn cầu chậm lại và nhu cầu tại Trung Quốc yếu.
Kết thúc phiên giao dịch, hợp đồng thép không gỉ trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giao tháng 11 có lúc đã giảm khoảng 5,5% xuống 13.995 CNY (2.043,51 USD)/tấn, đóng cửa giá đạt 14.190 CNY. Các giá thép khác tại Thượng Hải cũng giảm. Thép thanh giao tháng 1/2021 giảm 2,2% xuống 3.658 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng đã giảm 2,9% xuống 3.752 CNY/tấn.
Đối với mặt hàng sắt, giá quặng trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 3,4% xuống 825 CNY/tấn. Giá tại xưởng sản xuất của Trung Quốc giảm tháng thứ 7 liên tiếp trong tháng 8, nhưng với tốc độ giảm chậm nhất kể từ tháng 3, cho thấy lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này tiếp tục phục hồi từ suy giảm mạnh bởi virus corona.
Trên thị trường nông sản, giá ngô trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) nhẹ trong phiên giao dịch vừa qua khi các thương nhân điều chỉnh vị thế trước khi số liệu quan trọng từ Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố vào thứ 6 (11/9). Ngô CBOT kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 1-1/2 US cent xuống 3,60-1/4 USD/bushel.
Khảo sát của Reuters dự kiến chính phủ sẽ hạ dự báo sản lượng ngô của Mỹ niên vụ 2020/21 và dự trữ cuối vụ.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa 0,01 US cent xuống 12,03 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 10 giảm 2,4 USD hay 0,7% xuống 358 USD/tấn.
Nguồn cung đường nhìn chung vẫn dồi dào, sản lượng tại Brazil mạnh, trong khi Ấn Độ nhiều khả năng sẽ trợ cấp xuất khẩu đầu vụ thứ 3 liên tiếp trong niên vụ 2020/21. Ấn Độ có thể đưa ra thông báo trước khi kết thúc tháng này, với khối lượng khoảng 6 triệu tấn. Nguồn cung đường của Ấn Độ ở mức cao có thể liên tiếp tạo áp lực giảm giá.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 3,25 US cent hay 2,5% xuống 1,2885 USD/lb, giảm phiên thứ 2 liên tiếp; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 5 USD hay 0,4% lên 1.416 USD/tấn. Thị trường tiếp tục nhận được hỗ trợ từ dự trữ của sàn giao dịch ở mức thấp nhất trong khoảng 20 năm.
Giá cao su Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần trong phiên qua, do giá tại Thượng Hải giảm trong khi khi ứng cử viên vaccine Covid-19 hàng đầu phải đối mặt với sự chậm trễ làm dấy lên lo ngại về nhu cầu hàng hóa này phục hồi chậm. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 4,3 JPY xuống 176 JPY (1,66 USD)/kg. Giá đã xuống mức thấp nhất kể từ ngày 25/8 tại 175,9 JPY trong đầu phiên giao dịch này.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 405 CNY đóng cửa tại 12.120 CNY (1.771 USD)/tấn sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 5/8 cũng trong phiên này.
Đồng JPY mạnh lên cũng gây áp lực cho thị trường cao su. Tuy nhiên, giá giao ngay tăng gần đây cũng cung cấp một số hỗ trợ. Giá cao su Thái Lan đã tăng và gần đạt được mức cao nhất 3 năm trong tháng này do nhu cầu toàn cầu tăng và sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc.
Giá hàng hóa thế giới sáng 10/9

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

37,82

-0,23

-0,60%

Dầu Brent

USD/thùng

40,65

-0,14

-0,34%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

27.860,00

+830,00

+3,07%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,40

-0,01

-0,25%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

112,01

+0,08

+0,07%

Dầu đốt

US cent/gallon

110,23

-0,38

-0,34%

Dầu khí

USD/tấn

320,50

+3,25

+1,02%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

40.830,00

+1.480,00

+3,76%

Vàng New York

USD/ounce

1.956,10

+1,20

+0,06%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.661,00

+91,00

+1,39%

Bạc New York

USD/ounce

27,33

+0,25

+0,91%

Bạc TOCOM

JPY/g

92,40

+1,60

+1,76%

Bạch kim

USD/ounce

921,25

-0,41

-0,04%

Palađi

USD/ounce

2.305,80

+2,89

+0,13%

Đồng New York

US cent/lb

304,20

-0,95

-0,31%

Đồng LME

USD/tấn

6.734,00

+66,00

+0,99%

Nhôm LME

USD/tấn

1.784,00

-8,00

-0,45%

Kẽm LME

USD/tấn

2.423,00

+6,00

+0,25%

Thiếc LME

USD/tấn

18.015,00

-31,00

-0,17%

Ngô

US cent/bushel

361,00

+0,75

+0,21%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

545,00

+1,25

+0,23%

Lúa mạch

US cent/bushel

269,00

+1,25

+0,47%

Gạo thô

USD/cwt

12,39

-0,05

-0,44%

Đậu tương

US cent/bushel

978,00

-0,75

-0,08%

Khô đậu tương

USD/tấn

318,10

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,20

-0,01

-0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

506,40

+1,00

+0,20%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.562,00

+7,00

+0,27%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

128,85

-3,25

-2,46%

Đường thô

US cent/lb

12,67

-0,01

-0,08%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

115,50

-2,25

-1,91%

Bông

US cent/lb

64,29

+0,09

+0,14%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

592,40

-20,10

-3,28%

Cao su TOCOM

JPY/kg

134,00

+1,40

+1,06%

Ethanol CME

USD/gallon

1,31

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg