Trên thị trường năng lượng, gía dầu giảm sau khi Saudi Arabia và Nga tạm hoãn cuộc họp giữa các nhà sản xuất dầu thô chủ chốt nhằm giải quyết tình trạng dư cung đang ngày càng trầm trọng trên toàn cầu.
Kết thúc phiên này, tại thị trường New York, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,26 USD (8%), xuống 26,08 USD/thùng; tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giảm 1,06 USD (3,1%), xuống 33,05 USD/thùng.
Cuộc họp của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, bao gồm Nga (OPEC+), dự kiến ban đầu diễn ra vào ngày 6/4, đã bị trì hoãn đến ngày 9/4, khi bất đồng giữa Nga và Saudi Arabia từ tháng trước dẫn tới sự sụp đổ của một thỏa thuận cắt giảm sản lượng vẫn tiếp diễn. Trong khi đó, nhu cầu nhiên liệu trên toàn cầu đã giảm khoảng 30% do ảnh hưởng của dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19.
Giá dầu WTI giảm mạnh hơn so với dầu Brent do báo cáo từ nhà cung cấp dữ liệu Genscape cho thấy, lượng dầu tồn kho tại trung tâm lưu trữ Cushing ở Oklahoma tăng khoảng 5,8 triệu thùng vào tuần trước. Nếu những số liệu này khớp với dữ liệu chính thức của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, dự kiến công bố ngày 8/4, thì đây sẽ là tuần thứ năm liên tiếp lượng dầu thô tồn kho tại Cushing gia tăng và là mức tăng hàng tuần mạnh nhất kể từ năm 2004.
OPEC+ đang nỗ lực thúc đẩy một thỏa thuận cắt giảm sản lượng khoảng 10% nguồn cung thế giới, hoặc 10 triệu thùng/ngày, song các quốc gia thành viên muốn đó là nỗ lực toàn cầu, có sự chung tay của một số quốc gia thường không hạn chế nguồn cung, đặc biệt là Mỹ.
Giá dầu thế giới đã phục hồi hơn 35% vào tuần trước, sau khi các nguồn tin từ OPEC+ cho biết họ đang tiến gần tới một thỏa thuận cắt giảm sản lượng nhằm hạn chế nguồn cung dầu toàn cầu. Tuy nhiên, nhóm này muốn có sự tham gia của Mỹ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 2% lên mức cao nhất trong hơn ba tuần qua do đồn đoán về các biện pháp kích thích toàn cầu nhằm ứng phó với thiệt hại kinh tế do dịch Covid-19 gây ra.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 2,3% lên 1.653,35 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức cao nhất kể từ ngày 11/3 là 1.655,69 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 6/2020 tăng 2,9% kết thúc ở mức 1.693,90 USD/ounce.
Dịch Covid-19 đã khiến hơn 1,25 triệu người lây nhiễn trên toàn thế giới, với hơn 68.400 ca tử vong, gây tổn thất nghiêm trọng về kinh tế. Chính phủ và ngân hàng trung ương nhiều nước đã công bố hàng loạt biện pháp kích thích tài khóa và tiền tệ chưa từng có, cũng như đưa ra các hình thức hỗ trợ khác cho nền kinh tế đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh. Đồng USD chững lại so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt khác, nhưng lại tiếp tục tăng so với đồng yen, khi số ca tử vong do dịch Covid-19 tại châu Âu đã chậm lại, trong khi tại Nhật Bản và các nước khác ở châu Á lại có dấu hiệu tăng lên.
Phil Streible, trưởng bộ phần chiến lược thị trường của công ty Blue Line Futures ở Chicago, cho rằng số lượng các biện pháp kích thích khổng lồ đang làm các đồng tiền giảm giá mạnh, từ đó thúc đẩy nhu cầu đối với vàng.
Về các kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 1,9% lên 734,02 USD/ounce, bạc tăng 3,3% lên 14,86 USD/ounce trong khi palađi tăng 1,9% lên 734,02 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng khi số người tử vong do virus corona tại một số nước châu Âu giảm và tồn trữ đồng giảm. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,1% lên 4.891 USD/tấn. Trong tuần trước, giá đồng tăng 1% do số liệu nhà máy tích cực tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – rời khỏi chuỗi giảm 6 tuần liên tiếp.
Lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm 1.050 tấn xuống 217.475 tấn, giảm từ mức cao nhất năm 2020 (220.325 tấn) trong ngày 17/3/2020; lượng lưu kho trên sàn Thượng Hải trong tuần tính đến ngày 3/4/2020 giảm tuần thứ 3 liên tiếp xuống 332.435 tấn, giảm 13% so với mức cao nhất gần 4 năm hồi giữa tháng 3/2020.
Ngoài ra, giá đồng còn được hỗ trợ bởi công ty sản xuất đồng Antofagasta cho biết sẽ tạm dừng hoạt động tại dự án Los Pelambres Expansion, Chile trong 4 tháng do virus corona. Các công ty khác tại Chile – nguồn khai thác đồng lớn nhất thế giới – cũng xem xét cắt giảm sản lượng, khi nước này đưa ra các biện pháp nghiêm ngặt để chống lại đại dịch.
Trái với đồng, giá nhôm giảm 0,4% xuống 1.475 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 1.459,5 USD/tấn - thấp nhất kể từ tháng 1/2016, ghi nhận phiên giảm thứ 6 liên tiếp. Tính từ đầu năm đến nay, giá nhôm giảm 19%.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn ICE tăng 1,75 US cent tương đương 1,5% lên 1,1665 USD/lb; cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 3 USD tương đương 0,3% lên 1.194 USD/tấn.
Giá đường thô tăng do thị trường chứng khoán tăng, song mức tăng bị hạn chế bởi lo ngại Brazil sẽ thúc đẩy sản lượng đường. Đường thô kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn ICE tăng 14 US cent tương đương 1,4% lên 10,45 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 6,4 USD tương đương 1,9% xuống 330,1 USD/tấn.
Giá năng lượng suy yếu có thể khiến các nhà máy mía đường Brazil sản xuất nhiều đường hơn. Sản lượng đường tại khu vực Trung Nam Brazil trong niên vụ 2020/21 dự kiến sẽ tăng lên 33,8 triệu tấn so với 26,7 triệu tấn niên vụ trước, Marex Spectron cho biết.
Đối với ngũ cốc, gía ngô tại Chicago giảm phiên thứ 7 liên tiếp xuống mức thấp nhất kể từ năm 2016, do triển vọng diện tích trồng trọt tại Mỹ tăng mạnh và giá dầu thô suy yếu khiến nhu cầu ngô sản xuất ethanol giảm.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 2 US cent xuống 3,28-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 3,25-1/2 USD/bushel, thấp nhất kể từ tháng 9/2016. Trong khi đó, giá đậu tương kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 3-3/4 US cent lên 8,58 USD/bushel và giá lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 8-1/2 US cent lên 5,57-3/4 USD/bushel.
Giá cao su tại Tokyo tăng lên mức cao nhất 1 tuần theo xu hướng giá chứng khoán, song lo ngại nhu cầu toàn cầu suy giảm đã hạn chế đà tăng. Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn TOCOM tăng 2,6 JPY lên 146,9 JPY (1,35 USD)/kg, trong phiên có lúc đạt 147,3 JPY/kg, cao nhất kể từ ngày 31/3/2020; cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn SICOM tăng 1,1% lên 107,3 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới sáng 6/4/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

26,78

+0,70

+2,68%

Dầu Brent

USD/thùng

33,54

+0,49

+1,48%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

26.180,00

-320,00

-1,21%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,77

+0,04

+2,20%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

71,12

+0,96

+1,37%

Dầu đốt

US cent/gallon

106,37

+1,80

+1,72%

Dầu khí

USD/tấn

308,50

+14,75

+5,02%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

37.050,00

+20,00

+0,05%

Vàng New York

USD/ounce

1.635,90

-1,80

-0,11%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.586,00

+154,00

+2,84%

Bạc New York

USD/ounce

14,62

-0,03

-0,23%

Bạc TOCOM

JPY/g

50,30

+1,30

+2,65%

Bạch kim

USD/ounce

730,85

-0,12

-0,02%

Palađi

USD/ounce

2.233,66

+3,81

+0,17%

Đồng New York

US cent/lb

222,00

+0,15

+0,07%

Đồng LME

USD/tấn

4.897,00

+97,00

+2,02%

Nhôm LME

USD/tấn

1.491,00

-8,50

-0,57%

Kẽm LME

USD/tấn

1.887,50

+17,00

+0,91%

Thiếc LME

USD/tấn

14.375,00

+30,00

+0,21%

Ngô

US cent/bushel

333,50

-1,25

-0,37%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

541,75

-8,50

-1,54%

Lúa mạch

US cent/bushel

264,50

+4,25

+1,63%

Gạo thô

USD/cwt

14,25

+0,19

+1,35%

Đậu tương

US cent/bushel

858,75

-4,00

-0,46%

Khô đậu tương

USD/tấn

309,10

-5,80

-1,84%

Dầu đậu tương

US cent/lb

26,24

+0,19

+0,73%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

472,30

-1,40

-0,30%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.278,00

+41,00

+1,83%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

119,35

+3,35

+2,89%

Đường thô

US cent/lb

10,29

+0,25

+2,49%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

116,00

-2,85

-2,40%

Bông

US cent/lb

49,99

+1,58

+3,26%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

264,10

+4,30

+1,66%

Cao su TOCOM

JPY/kg

143,00

+2,40

+1,71%

Ethanol CME

USD/gallon

0,87

+0,03

+3,47%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg