Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô tăng nhẹ trong bối cảnh thị trường tiếp tục lo ngại về tình hình nguồn cung từ Trung Đông có thể bị gián đoạn bởi các lệnh trừng phạt của Mỹ áp đặt lên Iran.
Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc tăng 63 US cent (0,8%) lên 81,41 USD/thùng; dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tăng 14 US cent lên 71,92 USD/thùng.
Một số thông tin cho thấy xuất khẩu dầu của Iran có thể giảm nhanh hơn dự kiến, trước thời điểm lệnh trừng phạt được Mỹ áp đặt vào ngày 4/11/2018. Trước đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã kêu gọi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) tăng sản lượng để giúp “bù đắp” sự thiếu hụt do lệnh trừng phạt mới lên Iran. Sản lượng dầu thô của OPEC tăng 100.000 thùng/ngày trong tháng 9 lên 32,8 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu của các nhà sản xuất không thuộc OPEC được dự báo tăng 2,2 triệu thùng/ngày và 1,8 triệu thùng/ngày trong năm 2018 và 2019, dẫn đầu là Mỹ.
Xuất khẩu dầu của Tehran dự kiến tiếp tục giảm khi lệnh trừng phạt mới của Mỹ có hiệu lực vào tháng tới, với Tổng thống Mỹ Donald Trump gây áp lực lên OPEC để gia tăng sản lượng.
Số liệu từ Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho thấy lượng dầu dự trữ tại kho Cushing ở Oklahoma của Mỹ, trung tâm phân phối dầu WTI, đã tăng 1,5 triệu thùng, và là tuần tăng thứ tư liên tiếp. Số liệu chính thức sẽ được Bộ Năng lượng Mỹ công bố vào cuối ngày 17/10/2018. Trong khi đó, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết sản lượng dầu đá phiến của Mỹ dự kiến đạt mức cao kỷ lục 7,7 triệu thùng/ngày trong tháng 11.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, nhu cầu dầu sẽ tăng trưởng yếu hơn trong năm nay và năm tới so với dự báo đầu tiên. Cụ thể, tăng trưởng nhu cầu ước tính cho năm 2018 và 2019 đã giảm 110.000 thùng/ngày xuống lần lượt 1,3 triệu thùng/ngày và 1,4 triệu thùng/ngày, do căng thưởng thương mại và giá dầu thô tăng cao gây ra áp lực lớn cho nền kinh tế toàn cầu.
Mỹ và Trung Quốc đã áp thuế quan lên hàng hóa mỗi quốc gia trong những tháng gần đây, dẫn đến sự điều chỉnh xuống đối với các dự báo về kinh tế và dấy lên lo ngại trên thị trường chứng khoán. Sự gia tăng của đồng USD cũng gây áp lực lên các đồng tiền thị trường mới nổi, khiến một số nhà tiêu thụ dầu lớn phải chi nhiều hơn khi nhập khẩu mặt hàng này.
Tuy nhiên, IEA báo cáo, ngay cả khi tăng trưởng nhu cầu suy yếu đang bao trùm thị trường, tổng tiêu thụ dầu, đạt khoảng 100 triệu thùng/ngày, vẫn là rất mạnh và giúp dầu thô xác lập mức giá trên 80 USD/thùng.
Ước tính mới, theo sau sự điều chỉnh giảm của OPEC, được đưa ra khi các nhà sản xuất toàn cầu chịu nhiều áp lực hơn trong việc gia tăng sản lượng để bù đắp sự mất mát từ Iran.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng duy trì quanh mức cao nhất 2,5 tháng trông bối cảnh đồng USD yếu đi lấn át tâm lý ưa rủi ro của các nhà đầu tư.
Kết thúc phiên, vàng giao ngay không thay đổi ở mức 1.226,29 USD/ounce, trong khi vàng giao sau tăng 0,1% lên mức 1.231 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD giảm xuống dưới mức thấp nhất hai tuần trong khi đồng tiền của các thị trường mới nổi tố hơn và các thị trường chứng khoán tăng phản ánh nhu cầu tài sản rủi ro đang cải thiện.
Về mặt kỹ thuật, giá vàng đang giao dịch quanh 1,227 USD/ounce, mức trung bình cộng 100 ngày. Căng thẳng giữa Saudi Arabia và các nước phương Tây, cộng với sự chia rẽ tại châu Âu về ngân sách của Italy, cũng đang hỗ trợ giá vàng.
Cổ phiếu toàn cầu tăng sau khi sụt giảm mạnh trong vài phiên vừa qua, nhưng mức tăng bị hạn chế do các thị trường vẫn lo lắng vì các yếu tố gồm cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, căng thẳng giữa Saudi Arabia và các cường quốc phương Tây, các cuộc đàm phán Brexit bị trì hoãn và những lo ngại về kinh tế của Trung Quốc. Peter Hug, giám đốc giao dịch toàn cầu tại Kitco Metals, phát biểu rằng sự biến động gần đây trong các thị trường chứng khoán toàn cầu và một số căng thẳng địa chính trị gia tăng đang tiếp tục đẩy tăng nhu cầu đối với vàng với vai trò là tài sản đảm bảo.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 0,1% xuống 14,64 USD/ounce; giá bạch kim tăng 0,4% lên 842,2 USD/ounce trong khi giá palađi hạ 0,3% xuống 1.080,50 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng giảm trong ngày trong bối cảnh số liệu giá cả xuất xưởng tại Trung Quốc yếu và những lo ngại về tăng trưởng toàn cầu, căng thẳng thương mại và lãi suất đang tăng của Mỹ.
Trong khi các yếu tố cơ bản về nguồn cung đồng là mạnh, theo giới chuyên gia, giá sẽ chỉ bắt đầu tăng khi các cơn sóng vĩ mô dịu lại, mà điều này không thể diễn ra trong ngắn hạn.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London đóng cửa phiên hôm qua giảm 1,4% xuống 6,215,50 USD/tấn. Kim loại này đã giao dịch trong biên độ nhỏ kể từ giữa tháng 9/2018 nhưng giảm 14% kể từ mức đỉnh trong tháng 6/2018.
Các nhà môi giới chỉ ra rằng, tồn kho thấp và cho biết bất kỳ tình trạng căng thẳng thương mại leo thang sẽ dẫn tới Trung Quốc phải dựa vào kích thích cơ sở hạ tầng để hỗ trợ tăng trưởng.
Công ty khai khoáng lớn nhất thế giới BHP đã tăng gần gấp đôi cổ phần tại SolGold Plc, củng cố vị trí của họ so với cổ đông hàng đầu, công ty Newcrest Mining, khi họ nhìn vào dự án đồng – vàng Cascabel đầy hứa hẹn tại Ecuador.
Giá thép cây giao sau của Trung Quốc giảm trở lại sau khi tăng lên mức cao nhất trong gần 4 tuần, mặc dù triển vọng giá vẫn mạnh trong bối cảnh sản lượng hạn chế do Bắc Kinh tăng cường cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường.
Và mặc dù các dự báo nhu cầu thép của Trung Quốc ổn định trong năm tới, giới phân tích cho biết giá thép tại nhà sản xuất và tiêu thụ hàng đầu thế giới này vẫn được hỗ trợ bởi quyết tâm giảm công suất dư thừa và lỗi thời.
Hợp đồng thép cây kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đã tăng lên 4.167 CNY (602 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 20/9/2018, trước khi đóng cửa giảm 0,3% xuống 4.117 CNY/tấn.
Hiệp hội Thép Thế giới ước tính nhu cầu thép của Trung Quốc sẽ tăng 6% trong năm nay lên 781 triệu tấn và sẽ ở nguyên mức này trong năm 2019, cho biết thiếu vắng các biện pháp kích thích kinh tế sẽ gây tăng trưởng nhu cầu của Trung Quốc chậm lại.
Wang Li, một nhà phân tích thuộc công ty tư vấn CRU ở Bắc Kinh cho biết bà không dự kiến tiêu thụ sụt giảm mạnh do tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng ở nước này và lĩnh vực sản xuất mạnh.
Đường Sơn, thành phố sản xuất thép hàng đầu của Trung Quốc đã yêu cầu các nhà máy cắt giảm sản lượng một nửa từ ngày 11/10 tới ngày 18/10/2018 do dự báo thời tiết bất lợi, trong khi tỉnh Hà Bắc, nơi có thành phố Đường Sơn tuần trước đã bắt đầu thanh tra môi trường các nhà máy công nghiệp.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2018 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đã giảm 1,1% chốt phiên tại 507,5 CNY/tấn.
Quặng sắt giao ngay ở Trung Quốc từ Australia không đổi tại 70,70 USD/tấn trong ngày 15/10/2018. Sản lượng quặng sắt tại công ty Vale SA của Brazil, nhà sản xuất quặng sắt lớn nhất thế giới, đã đạt kỷ lục 104,95 triệu tấn trong quý 3/2018. Công ty Rio Tinto đứng thứ hai, cho biết xuất khẩu quặng sắt trong quý 3/2018 giảm khoảng 5% xuống 81,9 triệu tấn, bị thiệt hại bởi việc bảo dưỡng và vấn đề an toàn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 12/2018 giảm 1,7 US cent tương đương 1,4% xuống 1,1765 USD/lb, robusta giao tháng 1/2019 tăng 3 USD tương đương 0,2% lên 1.755 USD/tấn.
Đường thô kỳ hạn tháng 3/2018 giảm 0,18 US cent hay 1,3% xuống 13,25 US cent/lb, thoái lui từ mức cao nhất 7 tháng trong phiên trước. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2018 giảm 4,3 USD hay 1,2% xuống 366,5 USD/tấn.
Trong những tuần gần đây, giá đường đã phục hồi đáng kể từ mức thấp nhất 10 năm hồi tháng 9/2018, do các nhà đầu cơ vội vàng đóng lại các hợp đồng bán ra của họ. Sự gia tăng một phần bởi đồng real của Brazil mạnh lên cùng với dự đoán sản lượng giảm tại nước này.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tăng nhẹ trong phiên qua do giá giao ngay mạnh, bất chấp thị trường Thượng Hải giảm. Giá cao su TOCOM thường theo xu hướng giá kỳ hạn tại Thượng Hải. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 3/2019 đóng cửa tăng 0,3 JPY lên 169,1 JPY/kg. Các hợp đồng cao su kỳ hạn chính khác sụt giảm theo xu hướng của giá dầu. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 150 CNY (21,68 USD) xuống 12,105 CNY/tấn.
Li Dongling, chuyên gia phân tích thuộc First Futures cho biết "các yếu tố cơ bản của cao su không có gì thay đổi. Giá dầu giảm ngày hôm nay, thúc đẩy giá của các sản phẩm công nghiệp chính, gồm cao su giảm".
Giá đậu tương giao tháng 12/2018 giảm 10-1/2 US cent xuống 8,81 USD/bushel, trong khi ngô giao cùng kỳ hạn giảm 3-3/4 US cent xuống 3,74-1/2 USD/bushel.
Trung Quốc đang bước vào mùa thường được xem là mùa thu mua đậu tương Mỹ, nguồn protein quan trọng đối với thức ăn chăn nuôi gia súc, và thuế quan cao hơn, một phần của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc đang leo thang, có thể kéo giá tăng cao. Hiện nước này đang tìm cách giảm lượng protein sử dụng trong thức ăn chăn nuôi heo và gia cầm, vì nguồn cung đậu tương thắt chặt sau khi Bắc Kinh áp thuế lên hàng nhập khẩu của Mỹ.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,92

+0,14

 

Dầu Brent

USD/thùng

81,41

+0,63

+0,8%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

54.790,00

+610,00

+1,13%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,26

+0,02

+0,74%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

198,53

+0,80

+0,40%

Dầu đốt

US cent/gallon

234,40

+0,38

+0,16%

Dầu khí

USD/tấn

717,75

+6,25

+0,88%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

71.230,00

+660,00

+0,94%

Vàng New York

USD/ounce

1.227,20

-3,80

-0,31%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.408,00

+3,00

+0,07%

Bạc New York

USD/ounce

14,66

-0,04

-0,28%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,90

+0,20

+0,38%

Bạch kim

USD/ounce

375,00

-0,25

-0,07%

Palađi

USD/ounce

522,25

-1,25

-0,24%

Đồng New York

US cent/lb

300,50

-1,75

-0,58%

Đồng LME

USD/tấn

11,07

0,00

-0,05%

Nhôm LME

USD/tấn

883,00

-1,75

-0,20%

Kẽm LME

USD/tấn

321,40

-0,90

-0,28%

Thiếc LME

USD/tấn

29,71

+0,05

+0,17%

Ngô

US cent/bushel

375,00

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

522,25

-1,25

-0,24%

Lúa mạch

US cent/bushel

300,50

-1,75

-0,58%

Gạo thô

USD/cwt

11,07

0,00

-0,05%

Đậu tương

US cent/bushel

883,00

-1,75

-0,20%

Khô đậu tương

USD/tấn

321,40

-0,90

-0,28%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,71

+0,05

+0,17%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

500,00

+0,10

+0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.194,00

+53,00

+2,48%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

117,65

-1,70

-1,42%

Đường thô

US cent/lb

13,25

-0,18

-1,34%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

143,35

-0,50

-0,35%

Bông

US cent/lb

78,55

+0,22

+0,28%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

339,90

+14,20

+4,36%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,80

+1,70

+1,01%

Ethanol CME

USD/gallon

1,28

-0,02

-1,83%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg