Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm giảm khi giới đầu tư tiếp tục chú ý đến những tác động từ căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, và số liệu cho thấy lượng dầu thô dự trữ của Mỹ gia tăng.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ (WTI) giảm 1,1 USD, hay 1,6% và được giao dịch ở mức 68,65 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giảm 0,76 USD xuống còn 79,29 USD/thùng, trong phiên có thời điểm dầu Brent giảm xuống dưới 79 USD/thùng sau khi Bộ Năng lượng Mỹ công bố số liệu cho thấy các công ty và doanh nghiệp sản xuất dầu của nước này đã tăng lượng dầu dự trữ thêm 22 triệu thùng trong bốn tuần qua.
Giá dầu giảm do các nhà đầu tư trở lại lo ngại về tác động của xung đột thương mại leo thang giữa Trung Quốc và Mỹ tới tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ và số liệu cho thấy nguồn cung đang dồi dào.
Các công ty lọc dầu của Mỹ đang bước vào mùa bảo trì và sẽ ngừng hoạt động trong 4-6 tuần cũng là yếu tố gây ảnh hưởng đến nhu cầu và giá dầu trong thời gian này.
Giá dầu Brent đã giảm gần 8 USD/thùng kể từ khi chạm mức cao nhất trong bốn năm là 86,74 USD/thùng trong phiên giao dịch ngày 3/10, do kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng thấp hơn khi Mỹ và Trung Quốc áp thuế lên hàng hóa của nhau. Quỹ Tiền tệ Quốc tế mới đây đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 3,9% xuống 3,7% cho cả hai năm 2018 và 2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trong bối cảnh chứng khoán mất điểm. Vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.226,11 USD/ounce, trong khi vàng giao kỳ hạn vào tháng 12 tăng 2,7 USD (0,22%) lên 1.230,10 USD/ounce.
Chứng khoán Mỹ giảm điểu sau báo cáo lợi nhuận yếu kém từ các ngành công nghiệp khi lo ngại gia tăng về chi phí cho vay cao hơn sau khi biên bản cuộc họp của Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) được công bố. Biên bản cuộc họp mới nhất của Fed cho thấy ban điều hành của Fed dự kiến sẽ tiếp tục nâng lãi suất nếu nền kinh tế lớn nhất thế giới duy trì đà tăng vững mạnh và lạm phát tăng lên.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,2% xuống 14,59 USD/ounce sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ ngày 11/10 là 14,41 USD/ounce; bạch kim giảm 0,3% xuống 829 USD/ounce sau khi chạm mức thấp của một tuần là 821 USD/ounce, còn palađi tăng 0,3% lên 1.072,25 USD/ounce
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel chạm mức thấp nhất một tháng, đồng và chì cũng giảm, do các nhà đầu tư lo lắng về tăng trưởng của Trung Quốc và lãi suất cao ở Mỹ.
Warren Patterson, nhà chiến lược hàng hóa tại ngân hàng ING Bank ở Amsterdam cho biết những lo ngại về kinh tế vĩ mô tiếp tục ảnh hưởng tới kim loại công nghiệp, mặc dù nhiều kim loại có dấu hiệu nguồn cung thắt chặt.
Trong biên bản cuộc họp chính sách tháng 9/2018, các nhà hoạch định chính sách Fed đã thống nhất về sự cần thiết để nâng lãi suất tiếp, trong khi đó kinh tế Trung Quốc đang đối mặt với áp lực giảm ngày càng tăng trước khi số liệu GDP được công bố trong ngày 19/10.
Nickel giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London chốt phiên giảm 0,2% xuống 12.350 USD/tấn, trong phiên có lúc giá xuống 12.200 USD/tấn thấp nhất kể từ ngày 18/9/2018. Đồng LME giảm 1% xuống 6.157 USD/tấn, thấp nhất một tuần. Chì LME giảm 2,2% xuống 2.002 tấn.
Thiếu hụt trên thị trường nickel toàn cầu thu hẹp xuống 7.100 tấn trong tháng 8/2018 từ mức 16.500 tấn trong tháng trước đó.
Một yếu tố tiêu cực khác với nickel là báo cáo sản lượng gang nickel (NPI) một loại thay thế cho nickel đã tinh chế với hàm lượng nickel thấp hơn thường được sử dụng trong thép không gỉ. Trong tháng 9 sản lượng NPI của Trung Quốc tăng lên mức cao nhất mỗi ngày trong hơn 4 năm.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2018 chốt phiên tăng 0,14 US cent hay 1% lên 13,87 US cent/lb sau khi chạm mức cao nhất trong 8 tháng tại 13,95 US cent. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2018 tăng 10 US cent hay 0,03% lên 378,6 USD/tấn khi đóng cửa. Các đại lý cho biết tin tức sâu bệnh phá hoại có thể hạn chế sản lượng tại Ấn Độ tiếp tục hỗ trợ giá đường.
Cà phê arabica giao tháng 12/2018 giảm 0,5 US cent tương đương 0,41% xuống 1,2205 USD/lb, mặc dù trong phiên có lúc đạt 1,2430 USD, mức cao nhất kể từ 1/6/2018. Robusta giao tháng 1/2019 giảm 1 USD xuống 1.775 USD/tấn, sau khi có lúc đạt 1.792 USD/tấn, cao nhất trong vòng 5 tháng.
Giá cà phê tại Việt Nam tăng vọt lên mức cao nhất trong gần một năm, cà phê nhân xô đạt 38.000 – 38.500 đồng/kg, mức chưa từng thấy kể từ tháng 11/2017. Cà phê robusta loại 2 (5% hạt đen và vỡ) xuất khẩu chào giá ở mức trừ lùi 60 – 80 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2019 ở London, so với mức trừ lùi 50 – 60 USD/tấn cách đây một tuần. Thị trường lạc quan với giá tăng và nông dân cuối cùng đã giải phóng cà phê niên vụ 2017/2018 đang lưu kho trong nhiều tháng do giá thấp ở thị trường quốc tế.
Thời tiết đang cải thiện, Tây Nguyên có nắng nhiều trong tuần qua sau nhiều tuần mưa đã gây lo lắng về chất lượng hạt. Vụ thu hoạch dự đoán xảy ra sớm trong tháng này hay đầu tháng 11/2018.
Nhu cầu tại Indonesia lúc này thấp. Cà phê robusta Indonesia loại 4 có mức cộng 0 – 20 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2019 tại London, tuần trước mức cộng từ 25 tới 30 USD/tấn do nhu cầu từ nước ngoài yếu trước vụ thu hoạch của Việt Nam. Dự trữ cà phê của nước này tiếp tục giảm sau khi vụ thu hoạch chính kết thúc vào tháng trước.
Giá hàng hóa thế giới

 

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

68 ,65

-1,1

-1,6%

Dầu Brent

USD/thùng

79 ,29

-0,76

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

53.260 ,00

-400 ,00

-0 ,75%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3 ,24

+0 ,05

+1 ,41%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

189 ,92

+0 ,81

+0 ,43%

Dầu đốt

US cent/gallon

230 ,75

+1 ,26

+0 ,55%

Dầu khí

USD/tấn

707 ,75

-1 ,50

-0 ,21%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

69.720 ,00

-380 ,00

-0 ,54%

Vàng New York

USD/ounce

1.231 ,20

+1 ,10

+0 ,09%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.420 ,00

+18 ,00

+0 ,41%

Bạc New York

USD/ounce

14 ,64

+0 ,04

+0 ,25%

Bạc TOCOM

JPY/g

53 ,00

+0 ,60

+1 ,15%

Bạch kim

USD/ounce

831 ,31

+3 ,51

+0 ,42%

Palađi

USD/ounce

1.076 ,81

+3 ,73

+0 ,35%

Đồng New York

US cent/lb

273 ,75

-0 ,90

-0 ,33%

Đồng LME

USD/tấn

6.157 ,00

-62 ,00

-1 ,00%

Nhôm LME

USD/tấn

2.013 ,00

-9 ,00

-0 ,45%

Kẽm LME

USD/tấn

2.683 ,50

+18 ,50

+0 ,69%

Thiếc LME

USD/tấn

19.025 ,00

-55 ,00

-0 ,29%

Ngô

US cent/bushel

369 ,25

-1 ,50

-0 ,40%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

512 ,25

-0 ,75

-0 ,15%

Lúa mạch

US cent/bushel

296 ,75

+1 ,50

+0 ,51%

Gạo thô

USD/cwt

11 ,17

0 ,00

0 ,00%

Đậu tương

US cent/bushel

860 ,75

-2 ,75

-0 ,32%

Khô đậu tương

USD/tấn

316 ,00

-0 ,30

-0 ,09%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28 ,96

-0 ,06

-0 ,21%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

497 ,50

-0 ,20

-0 ,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.145 ,00

-81 ,00

-3 ,64%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122 ,05

-0 ,50

-0 ,41%

Đường thô

US cent/lb

13 ,87

+0 ,14

+1 ,02%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

142 ,05

-0 ,15

-0 ,11%

Bông

US cent/lb

78 ,01

-0 ,04

-0 ,05%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

325 ,90

-8 ,00

-2 ,40%

Cao su TOCOM

JPY/kg

165 ,90

+0 ,10

+0 ,06%

Ethanol CME

USD/gallon

1 ,26

-0 ,01

-1 ,17%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg