Bên kia dòng sông Chao Phraya chảy xuyên Bangkok là một cao ốc 49 tầng "trơ khung" và đầy những hình vẽ graffiti. Dự án này được biết đến với biệt danh "Tòa nhà ma", và hiện kết cấu của tòa nhà bị xuống cấp trong điều kiện nhiệt đới khắc nghiệt, khiến nó có nguy cơ phải bị đập bỏ.

Mang tên chính thức là Sathorn Unique, tòa nhà với 600 căn hộ này là một trong số 300 dự án văn phòng, khách sạn và căn hộ ở Bangkok đã bị thất bại sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Ngày nay, chỉ có một số ít trong số các dự án này còn tồn tại, và chúng đứng đó như một lời nhắc nhớ về tình trạng hỗn loạn kinh tế cách đây hai thập kỷ và những gì nền kinh tế Thái Lan đã trải qua.
Tăng trưởng GDP của một số nước châu Á sau khủng hoảng tài chính 1997. Nguồn: Nikkei/WB/ADB
Với thị trường tài chính, số 7 không phải là một con số may mắn. Năm 1987, thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ khi chỉ số Dow Jones giảm 22% trong một ngày, sự kiện này sau đó được gọi là Ngày thứ Hai đen tối (Black Monday). Sang năm 2007, thị trường cho vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ bắt đầu lung lay, dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers và làm bùng lên khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Về mặt tài chính, Châu Á giờ đây khác xa so với năm 1997. Nhưng điều đó liệu có đồng nghĩa rằng là khu vực này sẽ không bị ảnh hưởng bởi một cuộc khủng hoảng khác?
Hiệu ứng domino
Cách đây 20 năm, vào ngày 2/7/1997, chính phủ Thái Lan đã bất lực trong việc duy trì neo tỷ giá giữa đồng baht với đôla Mỹ, khiến đồng tiền của nước này sụp đổ. Cuộc khủng hoảng lan sang Hàn Quốc và Indonesia. Nhiều quốc gia đã bị tác động và phải trông cậy vào sự giải cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), với nhiều điều kiện kèm theo.
20 năm sau, chúng ta lại một lần nữa bước sang một năm có con số 7. Nhưng năm 2017 cho đến giờ vẫn khá tốt đối với các nền kinh tế châu Á và toàn cầu. Trong Triển vọng Kinh tế Toàn cầu xuất bản vào tháng 6 này, Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính tăng trưởng toàn cầu sẽ tăng từ mức 2,3% trong năm 2016 lên 2,7% trong năm nay, trong đó các nền kinh tế châu Á sẽ có mức tăng trưởng cao nhất.
Con số 7 dường như không làm phiền tới Thống đốc Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT), ông Veerathai Santiprabhob. "Chúng tôi không lo ngại một cuộc khủng hoảng tương tự như hồi năm 1997 có thể xảy ra với Thái Lan bây giờ, bởi đã có nhiều biện pháp tự vệ hơn và những yếu tố rủi ro đã bị đẩy ra khỏi hệ thống", ông nói.
Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng hệ thống tài chính và kinh tế châu Á đã có khả năng hồi phục nhanh hơn kể từ cuộc khủng hoảng. Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc đã bỏ việc neo đồng tiền vào USD, một thói quen vốn khiến nền kinh tế các nước này dễ bị tổn thương trước các nhà đầu cơ. Và hầu hết các nền kinh tế mới nổi trong khu vực không còn bị thâm hụt tài khoản vãng lai nữa, nhiều nước còn khá tự hào về dự trữ ngoại hối.
Tổng dự trữ của năm nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam đã vượt quá 500 tỷ USD vào cuối năm 2016, gấp 5 lần năm 1996.
Quay lại bờ vực
Nơi cuộc khủng hoảng năm ấy khởi phát - Thái Lan, giờ đây chứng kiến sự tiến bộ đặc biệt ấn tượng.
"Vị thế bên ngoài của Thái Lan rất mạnh, với thặng dư tài khoản vãng lai lớn và dự trữ ngoại hối gấp 3,5 lần nợ nước ngoài ngắn hạn", Thống đốc Veerathai cho biết. Ngày nay, các nhà điều hành chính sách tiền tệ Thái Lan đang lo ngại về một đồng baht mạnh hơn là một đồng tiền yếu.
Điều làm cho đồng baht mạnh là một lượng thặng dư tài khoản vãng lai lớn, tương đương hơn 10% GDP.
Dự trữ ngoại hối của một số nước châu Á. Nguồn: Nikkei
Trước cuộc khủng hoảng năm 1997, Thái Lan phải chịu thâm hụt tài khoản vãng lai. Năm 1996, con số này lên tới 14,6 tỷ USD, bằng 8% GDP. Tuy nhiên, BOT lúc đó lại neo đồng baht vào đồng USD với tỷ giá 25 baht đổi 1 USD, và thu hút ngoại tệ ngắn hạn bằng cách đẩy lãi suất cao. Các ngân hàng và doanh nghiệp Thái Lan đã dùng các khoản tiền dồi dào này để tài trợ cho các dự án đầu tư trong nước, bao gồm các dự án căn hộ cao cấp như Sathorn Unique.
Nhưng một khi mất niềm tin vào đồng tiền, dòng chảy sẽ đột ngột bị đảo ngược. BOT đã cố gắng duy trì tỷ giá nhưng nhanh chóng cạn kiệt dự trữ ngoại hối. Rốt cuộc Thái Lan đã buộc phải thả nổi đồng tiền của mình, và đồng baht sụp đổ.
Chênh lệch giữa các khoản vay ngắn hạn của Thái Lan bằng đồng USD từ giới đầu tư nước ngoài và các khoản đầu tư dài hạn bằng đồng baht trong nước đã ngày càng lớn. "Các nền kinh tế mới nổi châu Á và những nơi khác phụ thuộc nhiều vào nợ nước ngoài khi cuộc khủng hoảng xảy ra cách đây 20 năm, nhưng các định chế tài chính trong nước đã được cải thiện và ngày càng cung cấp tín dụng nhiều hơn cho các doanh nghiệp trong nước", ông Koji Sakuma, giáo sư tại Đại học Kyoto Tachibana (Nhật) nói.
 
Chau A da vuc day the nao vao 20 nam sau khung hoang 1997?
Tỷ lệ thặng dư tài khoản vãng lai trên GDP. Nguồn: Nikkei/IMF
Mạng lưới an toàn tài chính ở Châu Á đã tạo ra cảm giác ổn định cho cả hệ thống.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Bộ Tài chính Nhật Bản đã đề xuất thành lập Quỹ Tiền tệ Châu Á (AMF) để giúp các nước trong khu vực vượt qua khủng hoảng, mà không cần đến IMF. Nhưng Mỹ đã bác bỏ ý tưởng đó, thay vào đó nước này đề ra Washington Consensus (Đồng thuận Washington), bao gồm một loạt các đề xuất chính sách dành cho các nước đang phát triển, được tô vẽ nên bởi các tổ chức có trụ sở tại Mỹ.
Tuy nhiên, ý tưởng của Nhật Bản cuối cùng đã dẫn tới việc thành lập Sáng kiến Chiang Mai (CMI), một hiệp định hoán đổi tiền tệ đa phương giữa ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, vào năm 2000. Mặc dù ban đầu phản đối, song chính quyền Mỹ hiện hỗ trợ các nỗ lực của châu Á trong việc xây dựng quan hệ hợp tác tài chính thông qua các biện pháp như CMI.
Nhưng điều đó không có nghĩa là trong tương lai sẽ không có rủi ro. Điển hình nhất là Trung Quốc. Trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2017, GDP trên danh nghĩa (nominal GDP) của nước này đã tăng 10 lần, từ 8.000 tỷ nhân dân tệ (1,17 nghìn tỷ USD) lên 81.000 tỷ nhân dân tệ. Chủ tịch Tập Cận Bình đã nói rõ rằng chính phủ sẽ tăng chi tiêu để thúc đẩy nền kinh tế cho đến kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc vào mùa thu này.
Cuối tháng 5, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đã đổi cách tính tỷ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ nhằm hạn chế sự biến động. Động thái này trái ngược với lời hứa nới lỏng kiểm soát nội tệ hồi năm ngoái, khi đồng NDT được thêm vào giỏ tiền tệ dự trữ (SDR) của IMF. Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh đang lo ngại về dòng vốn dịch chuyển ra ngoài.
Bị mắc kẹt trong thị trường nội địa, dòng tiền lũ lượt đổ vào bất động sản và các loại tài sản khác, làm dấy lên mối lo ngại về bong bóng sẽ xảy ra. Nền kinh tế Trung Quốc luôn tồn tại một sự pha trộn giữa thái độ bi quan và lạc quan. Nhưng nếu bong bóng tài sản tại đây bùng nổ, tác động của nó có thể vượt xa cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, cho thấy mức độ phụ thuộc của châu Á vào Trung Quốc về thương mại, đầu tư và tài chính đã tăng lên.
IMF hồi đầu tháng này đã cảnh báo Trung Quốc rằng nền kinh tế của nước này đang phải đối mặt với tình trạng dễ bị tổn thương.
Triển vọng trung hạn của Trung Quốc "không chắc chắn vì tín dụng tăng nhanh, công suất dư thừa, và lĩnh vực tài chính ngày càng lớn, không rõ ràng và thiếu tính liên kết", Phó Giám đốc thứ nhất của IMF ông David Lipton cho biết. "Điều tối quan trọng gần đây là việc tập trung giải quyết rủi ro tài chính nên tiếp tục, ngay cả khi điều này có thể gây ra một số căng thẳng về tài chính và tăng trưởng chậm hơn."
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng là một mối đe dọa cho sự ổn định của thị trường. Chính quyền này đã rút ra khỏi các hiệp định đa phương như TPP và thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, và thay vào đó muốn theo đuổi các hiệp định song phương nhằm giảm thâm hụt thương mại của Mỹ. Đây là một thách thức với khuôn khổ toàn cầu về tăng trưởng bền vững.
Thị trường chứng khoán đã phản ứng tích cực trước chiến thắng bầu cử của Donald Trump vào tháng 11/2016 và đến nay vẫn trên đà tăng. Nhưng kỳ vọng vào các kế hoạch cắt giảm thuế và đầu tư vào cơ sở hạ tầng của vị tổng thống này đang trôi vào dĩ vãng. Sau mùa hè năm nay, cuộc tranh luận về trần nợ công sẽ lại tái xuất hiện. Cuối cùng, thị trường có thể sẽ không còn nhìn Trump qua lăng kính màu hồng như trước đây nữa.
Một mối đe dọa nữa từ Mỹ là lãi suất gia tăng. Việc tăng lãi suất của Mỹ từng khiến dòng tiền chảy ra khỏi khu vực Mỹ Latinh vào đầu những năm 1980, dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ. Một cuộc khủng hoảng tương tự cũng xảy ra tại Mexico vào năm 1994.
Giới đầu tư chắc hẳn không quên được cái gọi là taper tantrum (biến động thị trường khi Fed muốn cắt giảm chương trình mua lại trái phiếu). Đồng tiền của các nước mới nổi đã biến động mạnh sau khi Chủ tịch Fed Ben Bernanke vào tháng 5/2013 đề cập ý định rằng cơ quan này sẽ bắt đầu thu hẹp chương trình mua trái phiếu.
Dòng chảy vốn của các nền kinh tế mới nổi. Nguồn: Nikkei
Fed đã tăng lãi suất 3 lần kể từ tháng 12/2015, và thị trường phần lớn kỳ vọng sẽ có một lần nữa cuối năm nay. Fed cũng dự tính sẽ bắt đầu thu hẹp lại bảng cân đối tài chính.
 Việc Fed tăng lãi suất gần đây đã không gây ra nhiều bất ổn thị trường như trong cơn taper tantrum vài năm trước. Điều này có thể là bởi thị trường đã phản ứng từ trước khi lãi suất tăng, nhưng giới đầu tư có lẽ sẽ chú ý hơn đến một điều rằng Fed đang thắt chặt tiền tệ một cách thận trọng.
 Những nước dễ tổn thương
Đương nhiên, một số nước sẽ bị ảnh hưởng nặng nề hơn những nước khác khi các dòng vốn bắt đầu chảy ra.
Khi cơn thịnh nộ taper tantrum tấn công châu Á, Indonesia là nước bị ảnh hưởng lớn nhất. Nước này vẫn đang cảm thấy bị ảnh hưởng, với tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài 5 năm liền cho đến năm 2016.
Malaysia cũng mất một lượng lớn dự trữ ngoại hối giữa cơn taper tantrum, vì vị thế bên ngoài của nước này trở nên tồi tệ hơn do sự sụt giảm của giá dầu.
Tỷ lệ số dư tài khoản vãng lai của Philippines trên GDP cũng giảm 3 năm liền xuống mức thặng dư biên vào năm ngoái. "Đồng tiền của các nước có thâm hụt tài khoản vãng lai thường dễ bị mất giá trong trường hợp xảy ra khủng hoảng", Koji Sako, chuyên gia kinh tế cao cấp tại Viện nghiên cứu Mizuho của Nhật Bản, cảnh báo.
Cũng cần nhớ rằng các số nợ bằng USD đang gia tăng, điều này càng trở nên khó khăn hơn khi đồng nội tệ bị suy yếu.
Các doanh nghiệp ở Đông Nam Á, vốn bị chấn động mạnh bởi cuộc khủng hoảng 1997, giờ khá thận trọng khi đi vay ngoại tệ. Tuy vậy, các công ty Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn tiếp tục tích lũy nợ bằng ngoại hối, vì có rất nhiều tập đoàn lớn có thể được rót vốn từ nước ngoài để họ duy trì hoạt động ở bên ngoài. Nhưng điều này có nguy cơ tạo ra một khoảng cách về vốn tương tự như trước cuộc khủng hoảng.
Thêm vào đó, một tỷ lệ đáng kể các nguồn vốn từ nước ngoài đang đổ vào bong bóng bất động sản ở Trung Quốc, theo nghiên cứu của Mizuho Research.
Trong sự nghiệp 30 năm ở lĩnh vực tài chính và hoạch định chính sách, ông Robert Zoellick đã trải qua một số cuộc khủng hoảng bất ngờ, bao gồm trong thời gian ông làm việc với chính phủ Mỹ và tại World Bank, nơi ông từng làm chủ tịch. Ngày nay, Zoellick cho rằng có 2 rủi ro có thể gây ra cuộc khủng hoảng tài chính kế tiếp: một cuộc rút vốn từ chính sách tiền tệ khác thường, và nguy cơ an ninh mạng.
Không giống như các đợt tăng lãi suất trước đây, chu kỳ hiện tại của Fed cũng bao gồm việc giảm bớt bảng cân đối kế toán hiện tại. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hảng Nhật Bản (BOJ) là những cái tên kế tiếp thực hiện điều này. Các cuộc tấn công mạng có thể cũng dễ dàng gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính ngày nay, với số lượng lớn dữ liệu được giao dịch mỗi giây.
Không ai có thể biết chính xác những gì tạo thành cuộc khủng hoảng kế tiếp, nhưng chắc chắn sớm hay muộn thì nó cũng sẽ đến.

Nguồn: nhipcaudautu.vn