Theo các chuyên gia quốc tế, làn sóng bảo hộ thương mại đang nổi lên khá mạnh trong thời gian gần đây với các sự kiện đáng chú ý như Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Vương quốc Anh đang bắt đầu tiến trình rời khởi Liên minh châu Âu (EU), còn gọi là Brexit, cũng như biện pháp bảo hộ thương mại của một số nước. Điều đáng lo ngại là xu thế này có thể dẫn tới lên các cuộc chiến thương mại, ảnh hưởng bất lợi đến tăng trưởng kinh tế của các nước, khu vực và thế giới.
Chủ nghĩa bảo hộ thương mại trỗi dậy
Theo Citigroup (Mỹ), chủ nghĩa bảo hộ thương mại bắt đầu xuất hiện trở lại kể từ năm 2012. Từ năm 2013, các biện pháp bảo hộ tiếp tục có dấu hiệu gia tăng khi kinh tế thế giới bắt đầu tăng trưởng chậm lại và ngày càng nghiêm trọng hơn nhiều so với thời gian trước đây.
Ngày càng nhiều nước đang quay trở lại chính sách thúc đẩy sản xuất hàng hóa công nghiệp để thế chân hàng nhập khẩu, thắt chặt quy định về tỷ lệ nội địa hóa và trợ giá hàng xuất khẩu. Dự đoán, xu hướng bảo hộ thương mại trong thời gian tới sẽ tiếp diễn mạnh, có thể cản trở hệ thống thương mại toàn cầu cũng như đe dọa kéo dài chiều hướng tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới và có thể làm đảo ngược tiến trình toàn cầu hóa.
Thành quả của toàn cầu hóa không được phân chia đồng đều giữa các khu vực, các nền kinh tế đã dẫn tới xu hướng phản đối tự do hóa thương mại gia tăng mạnh ở nhiều khu vực trên thế giới, nhất là tại các nền kinh tế lớn, trong đó có Mỹ và châu Âu. Trong thời gian qua, số lượng biện pháp bảo hộ thương mại mà các nền kinh tế lớn thực hiện ngày càng tăng lên.
Theo các nhà phân tích, Tổng thống Mỹ Donald Trump là người có tư tưởng phản đối chủ nghĩa toàn cầu và chủ trương bảo hộ thương mại. Trong chiến dịch tranh cử, ông Trump đã bỏ qua các nguyên tắc đã được Mỹ ký kết trước đó về thương mại tự do, chỉ tập trung chủ yếu vào việc mang lại việc làm cho người dân Mỹ, kêu gọi các doanh nghiệp lớn quay trở lại kinh doanh ở Mỹ, điều này đồng nghĩa với việc chống lại xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Trong thời gian qua, Tổng thống Donald Trump đã ký sắc lệnh rút khỏi TPP, đề xuất đàm phán lại các điều khoản của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và xem xét lại các hiệp định thương mại khác…
Trong khi đó, các nước phương Tây cũng đang lâm vào tình trạng chia rẽ nội bộ sâu sắc về vấn đề toàn cầu hóa và thương mại. Sự thành công của chiến dịch bảo hộ thương mại tại một số nước và ứng cử viên Tổng thống Mỹ đắc cử nhờ chiến dịch bảo hộ thương mại có thể khơi mào cho một xu hướng mới.
Điều này đồng nghĩa với việc xu hướng bảo hộ thương mại sẽ diễn ra trong thời gian tới, các nước sẽ thực thi những biện pháp phòng vệ thương mại, từ đó có thể dấy lên một cuộc chiến tranh thương mại mới với nhiều hệ quả đáng lo ngại.
Hệ quả đáng ngại
Mỹ đã rút khỏi TPP. Ảnh: Reuters
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) từng cảnh báo chủ nghĩa bảo hộ thương mại có thể khiến kinh tế thế giới có nguy cơ tăng trưởng thấp kéo dài. Thực tế, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, đà phục hồi của nền kinh tế thế giới vẫn chưa thực sự vững chắc. Quay lưng lại với thương mại đồng nghĩa với việc sẽ mất đi một động lực chính của tăng trưởng kinh tế thế giới và có thể đe dọa xóa bỏ những nỗ lực tăng trưởng thời gian qua.
Mới đây, các quan chức Mexico cảnh báo những đề xuất của Mỹ tại các cuộc đàm phán lại NAFTA sẽ dẫn tới sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ thương mại hơn là tự do thương mại, trong bối cảnh những lo ngại về tương lai của NAFTA đã kéo đồng peso của Mexico giảm xuống mức thấp nhất trong bốn tháng qua.
Bộ trưởng Kinh tế Mexico Ildefonso Guajardo cho rằng chủ trương bảo hộ thương mại của Tổng thống Mỹ Donald Trump có thể “phá vỡ” NAFTA - vốn giúp đưa kim ngạch thương mại giữa ba nước đã ký hiệp định lên 1.000 tỷ USD/năm.
Trong khi đó, kết quả nghiên cứu công bố ngày 13/9 của Viện Bertelsmann, có trụ sở tại Guetersloh (Đức), cho thấy các biện pháp bảo hộ mậu dịch do Tổng thống Mỹ Donald Trump đề xuất có thể gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới. Theo kịch bản xấu nhất, chính sách “Nước Mỹ trên hết” có thể làm giảm 2,3% (tương đương 415 tỷ USD) Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Mỹ trong dài hạn.
Thậm chí trong kịch bản “nhẹ nhàng” nhất, theo đó Washington chỉ tiến hành đàm phán lại những thỏa thuận nền tảng của NAFTA, thu nhập bình quân đầu người thực tế hàng năm vẫn giảm 0,2%. Canada sẽ là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ những thay đổi NAFTA, với thu nhập bình quân thực tế thiệt hại 1,5% (730 USD/năm) đối với mỗi người dân. Về tổng thể, GDP của Canada có thể giảm 26 tỷ USD, so với mức giảm 40 tỷ USD đối với Mỹ.
Về phần mình, Martin Wansleben, người đứng đầu Phòng Thương mại và Công nghiệp Đức (DIHK), cho biết nhiều doanh nghiệp của nước này đang bắt đầu chuyển hướng đầu tư ra khỏi nước Anh nhằm đề phòng các rào cản thương mại gia tăng sau Brexit. Ông Martin Wansleben nói rằng các doanh nghiệp lo lắng Brexit sẽ có tác động tiêu cực lớn và có thể khiến nạn quan liêu gia tăng, thêm thời gian chờ đợi và việc kiểm soát biên giới gắt gao hơn, qua đó dẫn đến chi phí cao hơn.
Còn trong bài phát biểu tại Hội nghị các thống đốc ngân hàng trung ương ở Jackson Hole, Wyoming (Mỹ) ngày 25/8, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Mario Draghi nhận định kinh tế toàn cầu đang mạnh lên, nhưng các nước cần phối hợp hành động để đẩy lùi xu hướng chống mở cửa thương mại. Người đứng đầu ECB thừa nhận có quan điểm phổ biến là việc hạ các rào cản thương mại làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng.
Ông Draghi cảnh báo về mối đe dọa từ sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ khi các nước phát triển đang ngày càng quay lưng với thương mại tự do. Ông cho rằng chủ nghĩa bảo hộ sẽ gây rủi ro nghiêm trọng đối với năng suất và sức tăng trưởng tiềm năng của kinh tế toàn cầu. Theo ông, cần sự hợp tác đa phương để trấn an những lao động đang lo ngại rằng thương mại tự do đe dọa đến việc làm của họ và các nền kinh tế đã phát triển cần đảm bảo rằng kinh tế thế giới mở sẽ giữ vững được sự công bằng và an toàn cho lực lượng lao động của họ.
Trước đó, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã hối thúc Mỹ duy trì các mối quan hệ hợp tác đa phương khi cho rằng xu hướng bảo hộ thương mại trong nước là một nguy cơ đối với sự phát triển thịnh vượng. Mỹ là đối tác thương mại quan trọng nhất của Đức và chủ chương bảo hộ thương mại của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã gây hoang mang cho các nhà xuất khẩu của nền kinh tế lớn nhất châu Âu.
Trong năm 2017, Đức giữ chức Chủ tịch Nhóm 20 nước phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) và bà Merkel mong muốn tận dụng cơ hội này để bảo vệ sự hợp tác đa phương. Phát biểu sau cuộc họp giữa các thành viên cao cấp của đảng Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo (CDU), bà Merkel nói rằng tất cả các quốc gia sẽ giàu có hơn nếu hợp tác với nhau, thay vì tự cô lập mình.
Nguồn: BNEWS/TTXVN