Tỷ giá USD trong nước
Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam với đô la Mỹ ở mức: 23.235 VND/USD (tăng 6 đồng so với hôm qua). Tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch NHNN vẫn duy trì ở mức 23.175 - 23.650 VND/USD (mua vào - bán ra).
Với biên độ 3% được qui định, hiện tỷ giá USD các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép giao dịch trong khoảng 22.538 - 23.932 VND/USD: Ngân hàng Vietcombank giá USD được niêm yết 23.080 – 23.290 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 10 đồng so với hôm qua ở cả 2 chiều mua bán. Ngân hàng ACB niêm yết 23.110 – 23.280 VND/USD, không đổi. Đông Á niêm yết 23.140 - 23.270 VND/USD (mua vào - bán ra), không đổi.
Techcombank niêm yết 23.096 - 23.296 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 1 đồng ở cả 2 chiều mua bán.
Ngân hàng Quốc tế - VIB niêm yết 23.100 - 23.300 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 10 đồng giá mua nhưng không đổi giá bán.
Sacombank niêm yết 23.111 - 23.291 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 1 đồng giá mua nhưng giảm 19 đồng giá bán.
Tại Vietinbank, niêm yết 23.111 - 23.301 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 4 đồng giá mua và tăng 14 đồng giá bán.
BIDV niêm yết 23.115 - 23.295 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 4 đồng giá mua và giảm 14 đồng giá bán.
Giá USD tự do niêm yết ở mức mua vào 23.190 đồng/USD và bán ra 23.220 đồng/USD, tăng 10 đồng so với hôm qua ở cả 2 chiều mua bán.
Bảng so sánh tỷ giá ngoại tệ mới nhất hôm nay cập nhật lúc 15h có 8 ngoại tệ tăng giá, 7 ngoại tệ giảm giá mua vào. Chiều tỷ giá bán ra có 12 ngoại tệ tăng giá và 11 ngoại tệ giảm giá.
Tỷ giá ngoại tệ 1/7/2020
ĐVT: đồng

Tên ngoại tệ

Mã ngoại tệ

Mua Tiền mặt

Mua chuyển khoản

Bán ra

Đô la Úc

AUD

15,734,37 (+119,15)

15,859,32 (+121,63)

16,274,68 (+103,90)

Đô la Canada

CAD

16,819,04 (+146,99)

16,940,21 (+145,06)

17,311,41 (+137,46)

Franc Thuỵ Sĩ

CHF

23,850,12 (+84,62)

24,285,25 (+136,96)

24,595,46 (+89,68)

Nhân Dân Tệ

CNY

3,216,38 (+2,57)

3,236,37 (+2,72)

3,347,24 (+2,74)

Krone Đan Mạch

DKK

0

3,435 (+3,14)

3,598,18 (+2,76)

Euro

EUR

25,703,11 (+36,26)

25,823,29 (+31,20)

26,488,19 (+28,42)

Bảng Anh

GBP

28,278,42 (+245,28)

28,479,57 (+237,86)

28,999,93 (+180,58)

Đô la Hồng Kông

HKD

2,803,84 (-0,61¬)

2,938,98 (+0,82)

3,050,89 (-0,50)

Rupee Ấn Độ

INR

0

306,30 (-0,07)

318,31 (-0,08)

Yên Nhật

JPY

210,80 (-0,12)

212,55 (+0,02)

217,92 (-0,35)

Won Hàn Quốc

KRW

17,16 (-0,01)

18,28

20,89 (-0,21)

Kuwaiti dinar

KWD

0

75,264,11 (+16,49)

78,217,28 (+17,16)

Ringit Malaysia

MYR

5,074,51 (-3,55)

5,327,61 (-2,69)

5,565,19 (-2,45)

Krone Na Uy

NOK

0

2,365,90 (+21,69)

2,487,05 (+23,40)

Rúp Nga

RUB

0

310,24 (-2,88)

369,84 (-3,98)

Rian Ả-Rập-Xê-Út

SAR

0

6,170,67 (-2,66)

6,412,79 (-2,76)

Krona Thuỵ Điển

SEK

0

2,440,37 (+8,94)

2,558,55 (+9,58)

Đô la Singapore

SGD

16,383,56 (+15,99)

16,491,68 (+25,60)

16,858,29 (+26)

Bạc Thái

THB

693,90 (-1,10)

732,80 (-0,96)

775,54 (-2,95)

Đô la Mỹ

USD

23,107,88 (-0,79)

23,122,75 (-3,69)

23,290,38 (-3,85)

Kip Lào

LAK

0

2,25

2,54

Ðô la New Zealand

NZD

14,755 (+112)

14,845,40 (+111,80)

15,153,33 (+121)

Đô la Đài Loan

TWD

713,62 (-0,22)

762

832,74 (-0,12)

Riêl Campuchia

KHR

0

5

5

Peso Philippin

PHP

0

463

492

ZAR

0

1,575 (-1)

1,976 (-1)

Tỷ giá USD thế giới ổn định

USD Index giảm 0,16% xuống 97,347 điểm vào lúc 6h30 (giờ Việt Nam). Tỷ giá euro so với USD tăng 0,03% lên 1,1234. Tỷ giá đồng bảng Anh so với USD giảm 0,09% xuống 1,2388. Tỷ giá USD so với yen Nhật tăng 0,06% lên 107,98.
Trong phiên giao dịch trước, tỷ giá USD tiếp tục tăng nhẹ trong bối cảnh thị trường bị bao trùm bởi những lo ngại về làn sóng lây lan mới của đại dịch COVID-19. Các quốc gia trên thế giới và một số tiểu bang của Mỹ đã buộc phải áp dụng lại các lệnh hạn chế, cản trở con đường phục hồi kinh tế. Ngoài ra, một số nhà phân tích cho biết đồng bạc xanh cũng được hưởng lợi từ các dòng tái cân bằng danh mục đầu tư vào cuối tháng và cuối quí.
Theo dữ liệu được báo cáo, đồng USD tăng 1,4% so với quí I và 0,8% so với tháng 5. Trước đó, tỷ giá USD được dự đoán sẽ suy yếu vào cuối quí II bởi nhiều nhà đầu tư đã bán đồng bạc xanh và mua vào các loại tiền tệ rủi ro khi các quốc gia tìm cách mở cửa lại nền kinh tế, đồng thời tràn trề hi vọng về sự phát triển vắc-xin ngăn ngừa dịch COVID-19. John Doyle, Phó giám đốc giao dịch tại Tempus, Inc., Washington, nhận định: tâm lí đầu tư rủi ro đã giảm đi, vì vậy đồng bạc xanh sẽ tăng giá nhẹ.
Theo dữ liệu mới đây, Mỹ đã chứng kiến sự gia tăng 46% số lượng các trường hợp nhiễm COVID-19 trong tuần trước. Trong khi đó, 21 quốc gia báo cáo tỉ lệ dương tính với COVID-19 vượt trên mức mà Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá là đáng lo ngại.
Tổng giám đốc WHO, ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, cho rằng đại dịch COVID-19 vẫn còn lâu mới có thể kết thúc, mặc dù nhiều nước đã đạt được một số tiến bộ trong công tác ngăn chặn dịch bệnh. Đồng USD cũng được hưởng lợi sau khi dữ liệu bán nhà của Mỹ tăng mạnh trở lại. Trong khi đó, đồng euro đang chịu bị áp lực bởi dữ liệu giá cơ bản lại giảm trong khu vực liên minh châu Âu. Điều này nhấn mạnh rằng tăng trưởng giá tiêu dùng nhiều khả năng sẽ suy yếu trong nhiều năm.
Trong quí II, tiền tệ châu Âu đã đạt được mức tăng 1,6% so với 3 tháng đầu năm, thời điểm thị trường tài chính sụp đổ do COVID-19 bùng phát.
Ở một diễn biến khác, tỷ giá đồng bảng Anh so với USD đã phần nào phục hồi. Trong phiên giao dịch trước đó, đồng bảng Anh đã mất điểm sau khi Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh cho biết nền kinh tế đã sụt giảm 2,2% trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 khi các hộ gia đình cắt giảm chi tiêu, đây là con số tồi tệ nhất kể từ năm 1979 tại quốc gia này. Bên cạnh đó, tỷ giá USD giảm nhẹ 0,2% so với đồng franc Thụy Sĩ, theo tin tổng hợp từ Reuters.

Nguồn: VITIC