(VINANET) – Phiên giao dịch 17/9 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 18/9 giờ VN), giá hàng hóa đồng loạt giảm do triển vọng nhu cầu yếu và USD tăng giá khiến cho hàng hóa trở nên kém hấp dẫn.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm sau khi những số liệu mới nhất cho thấy nguồn cung dầu nội địa của Mỹ bất ngờ tăng, và kết quả cuộc họp chính sách 2 ngày cho thấy đồng USD có thể tăng giá sau khi Fed quyết định nâng lãi suất.

Giá dầu thô ngọt nhẹ kỳ hạn giao tháng 10 tại New York giảm 46 cent (-0,5%) xuống 94,42 USD/thùng. Giá dầu Brent tháng 10 trên sàn ICE giảm 8 cent (-0,1%) xuống 98,97 USD/thùng.

Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết, dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 3,7 triệu thùng lên 362,3 triệu thùng trong tuần kết thúc vào 12/9, trái với dự báo của các nhà phân tích là giảm 1,2 triệu thùng. Dự trữ xăng của Mỹ giảm 1,6 triệu thùng, trong khi dự đoán của các nhà phân tích là dự trữ không đổi so với tuần trước đó.

Dấu hiệu cho thấy rõ ràng Fed sẽ không bất ngờ nâng lãi suất hay thay đổi chính sách đang khiến đồng USD tăng giá. USD mạnh lên có thể ảnh hưởng xấu đến giá dầu khiến giá dầu thô trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua sử dụng ngoại tệ.

Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 10 tăng 1,04 cent (+0,4%) lên 2,5692 USD/gallon. Trong khi đó, giá dầu diesel giao tháng 10 giảm 1,12 cent xuống 2,7451 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 8 tháng sau phiên họp chính sách của Fed khiến giới đầu tư lo ngại Fed có thể nâng lãi suất sớm hơn dự kiến.

Giá vàng giao tháng 12 trên sàn Comex New York giao dịch ở 1.235,9 USD/ounce, không đổi so với mức đóng cửa hôm thứ Ba 16/9. Vàng giao ngay giá giảm 12,30 USD xuống 1.223,60 USD/ounce.

Fed đã giảm số tiền mua trái phiếu hàng tháng xuống 15 tỷ US, tiếp tục cho biết sẽ kết thúc chương trình vào tháng 10.

Mặc dù trong tuyên bố chính sách Fed cam kết duy trì lãi suất cận 0 “trong một thời gian đáng kể” khi USD và chứng khoán Mỹ đi lên nhưng giá vàng vẫn không duy trì được đà tăng sau khi dự báo của Fed cho thấy khả năng nâng lãi suất sớm hơn dự kiến vào năm tới.

Các quan chức Fed đã nâng dự báo trung bình về lãi suất của Fed lên 1,375% so với 1.125% hồi tháng 6, trong khi dự báo lãi suất năm 2016 tăng lên 2,875% so với 2,5% dự đoán hồi tháng 6. Đối với năm 2017, lãi suất trung bình là 3,75%.

Giá vàng giao ngay đã giảm 4 trong 5 tuần qua khi chứng khoán tăng và lạm phát vẫn ở mức thấp. Bên cạnh đó, Bộ Lao động Mỹ cho biết giá tiêu dùng tại Mỹ tháng 8 lần đầu tiên giảm trong gần 1,5 năm qua.

Xu hướng giảm giá cũng được phản ánh qua việc Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm 17/8 đã bán ra 4,18 tấn, giảm lượng vàng nắm giữ xuống 784,22 tấn.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,23% xuống 18,57 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,84% xuống 1.356,25 USD/ounce và giá palladium giảm 0,8% xuống 838,25 USD/ounce.

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng giảm mạnh nhất 1 tuần do lạm phát tại Mỹ thấp, dấu hiệu cho thấy nhu cầu yếu.

Đồng kỳ hạn giao 3 tháng trên thị trường London giảm 0,4% xuống 6.931 USD/tấn. Nickel, nhôm, chì, kẽm và thiếc cũng đồng loạt giảm giá.

Trên thị trường cà phê, giá hầu hết giảm trên cả 2 thị trường London và New York.

Giá cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 9 tăng 0,05 US cent/lb lên 180,65 US cent/lb, nhưng kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 0,4 US cent/lb xuống 184,85 US cent/lb, kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 0,35 US cent/lb xuống 189 US cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 0,4 US cent/lb xuống 191,4 US cent/lb.

Giá cà phê robusta tại London kỳ hạn giao tháng 9 giảm 8 9 USD, tương đương -0,41%, xuống 1.956 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 8 USD/tấn, tương đương -0,4%, xuống 1.977 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 7 USD/tấn, tương đương -0,35%, xuống 1.990 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 7 USD xuống 2.000 USD/tấn.

Trong báo cáo ra ngày 16/9, Conab cho biết, tổng sản lượng cà phê niên vụ kết thúc vài tuần trước ước đạt 45,14 triệu bao 60kg, tăng so với 44,57 triệu bao dự báo hồi tháng 5. Niên vụ 2013-2014, sản lượng cà phê của Brazil đạt 49,2 triệu bao. Lý do sản lượng tăng so với dự báo hồi tháng 5 là sản lượng cà phê robusta dự đoán tăng lên 13,03 triệu bao so với 12,33 triệu bao dự báo hồi tháng 5. Sản lượng cà phê robusta niên vụ trước đạt 10,81 triệu bao.

Giá cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng giá thế giới. Cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 8 USD từ 1.955 USD/tấn hôm qua xuống 1.947 USD/tấn. Giá cà phê trên thị trường Liffe London và Ice New York đều giảm.

 
 
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
93,91
-0,51
-0,54%
Dầu Brent
USD/thùng
98,46
-0,51
-0,52%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
66.760,00
+370,00
+0,56%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,99
-0,02
-0,50%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
256,31
-0,61
-0,24%
Dầu đốt
US cent/gallon
273,51
-1,00
-0,36%
Dầu khí
USD/tấn
830,50
-4,25
-0,51%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
81.870,00
+290,00
+0,36%
Vàng New York
USD/ounce
1.223,60
-12,30
-1,00%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.270,00
+4,00
+0,09%
Bạc New York
USD/ounce
18.73
0.00
+0.02%
Bạc TOCOM
JPY/g
64.60
0.00
0.00%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.350,75
-2,00
-0,15%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
826,70
-8,14
-0,98%
Đồng New York
US cent/lb
312,20
-2,15
-0,68%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.931,00
+30,00
+0,43%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.999,00
-27,00
-1,33%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.268,00
-12,00
-0,53%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
21.150,00
-45,00
-0,21%
Ngô
US cent/bushel
340,50
-1,25
-0,37%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
496,50
-2,75
-0,55%
Lúa mạch
US cent/bushel
344,00
-2,50
-0,72%
Gạo thô
USD/cwt
12,55
+0,04
+0,32%
Đậu tương
US cent/bushel
984,25
+1,75
+0,18%
Khô đậu tương
USD/tấn
325,30
+1,10
+0,34%
Dầu đậu tương
US cent/lb
33,45
-0,10
-0,30%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
411,50
-0,10
-0,02%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.153,00
+83,00
+2,70%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
184,85
-0,40
-0,22%
Đường thô
US cent/lb
16,25
+0,08
+0,49%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
142,10
-0,50
-0,35%
Bông
US cent/lb
65,54
-0,14
-0,21%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
328,30
-0,70
-0,21%
Cao su TOCOM
JPY/kg
193,10
+0,20
+0,10%
Ethanol CME
USD/gallon
1,66
-0,09
-5,25%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg