(VINANET) – Hàng hóa thế giới đang trong những ngày biến động giá thất thường. Sau phiên giảm giá đột ngột, dầu tăng trở lại. Trái lại, giá cà phê giảm sau số liệu cho thấy nhu cầu cà phê xuất khẩu của một số quốc gia giảm sút.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu đảo chiều tăng trở lại nhờ dấy lên hy vọng nhu cầu sẽ khởi sắc sau những số liệu kinh tế tích cực của Mỹ và động thái Arab Saudi nâng giá bán dầu cho Mỹ.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn Nymex New York tăng 2,03 USD, tương đương 4,2%, lên 50,48 USD/thùng. Phiên trước đó, giá dầu giảm 8,7% sau khi số liệu cho thấy tồn kho dầu của Mỹ lên cao nhất 80 năm.

Giá dầu Brent giao tháng 3/2015 trên sàn ICE Futures Europe London tăng 2,41 USD, tương đương 4,4%, lên 56,57 USD/thùng.

Giá dầu tăng sau khi Arab Saudi hạ giá bán dầu cho khách hàng châu Á trong khi nâng giá bán tại Mỹ. Việc Arab Saudi hạ giá bán dầu cho khách hàng Mỹ trong những tháng gần đây đã gây áp lực lên thị trường. Một số nhà đầu tư coi động thái này là dấu hiệu cho thấy Arab Saudi sẽ tiếp tục tăng cung dầu vào thị trường vốn đang dư cung nhằm giữ thị phần.

Giá dầu cũng được hỗ trợ khi USD giảm, theo Myrto Sokou, nhà phân tích tại Sucden Financial. Giá dầu thô, hàng hóa định giá bằng USD, sẽ trở nên “dễ thở” hơn đối với khách hàng sử dụng ngoại tệ khi USD giảm giá.

Một số nhà phân tích cho rằng giá dầu sẽ sớm chạm đáy do số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ giảm xuống thấp nhất 3 năm và nhiều công ty dầu mỏ đang giảm đầu tư cũng như chi phí. Cả 2 dấu hiệu này cho thấy nguồn cung dầu sẽ giảm trong những tháng tới hoặc vài năm tới.

Nhiều nhà đầu tư và thương nhân đang cố gắng tìm đáy giá dầu khi giá dầu Mỹ giảm 59% kể từ tháng 6/2014. Một số khác tập trung vào dư cung toàn cầu vốn gây ra làn sóng bán tháo, khiến giá dầu xuông thấp nhất 6 năm.

Tuy vậy, các nhà phân tích dự đoán sản lượng và tồn kho dầu toàn cầu vẫn ở mức cao trong nửa đầu năm 2015. Dư cung càng trầm trọng khi sản lượng dầu thô của Brazil và Iraq tăng 1 triệu thùng so với năm trước, theo ước tính của JBC Energy.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 3/2015 trên sàn Nymex tăng 4,32 cent (+2,9%) lên 1,5248 USD/gallon. Trong khi đó, giá dầu diesel giao tháng 3/2015 tăng 3,93 cent (+2,2%) lên 1,8059 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do căng thẳng tại Hy Lạp gia tăng sau khi ECB tuyên bố không chấp nhận trái phiếu Hy Lạp làm tài sản thế chấp. Giá vàng cũng giảm do báo cáo tích cực về thị trường lao động Mỹ giúp đẩy giá chứng khoán lên. Giá dầu tăng khoảng 5 6%.

Giá vàng giao tháng 4/2015 trên sàn Comex New York giảm 1,8 USD, tương đương 0,1%, xuống 1.262,7 USD/ounce.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn giá vàng có thể được hỗ trợ từ động thái giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung ương Trung Quốc hôm 4/2 trong một nỗ lực nâng cao thanh khoản, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế giảm phát.

Tuy các nền kinh tế lớn như Trung Quốc và châu Âu tiếp tục bơm thêm tiền vào hệ thống tiền tệ và nền kinh tế, song Mỹ vẫn tiếp tục lộ trình thắt chặt chính sác tiền tệ.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,8% xuống 17,22 USD/ounce, trong khi đó, giá bạch kim tăng 1,1% lên 1.249,9 USD/ounce và giá palladium tăng 0,5% lên 793,15 USD/ounce.

Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt giảm.  

Cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn New York giá giảm 0,15 US cent/lb xuống 164,75 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 167,55 US cent/lb xuống 167,55 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 0,1 US cent/lb xuống 170,2 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 0,1 US cent/lb xuống 172,65 US cent/lb.

Theo báo cáo của Liên đoàn Người trồng Cà phê Colombia, sản lượng cà phê tháng 1/2015 của nước này đạt 1.088.000 bao, tăng 7,62 % so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng cà phê 4 tháng đầu năm cà phê tháng 10/2014 – tháng 9/2015 đạt 4.390.000 bao, tăng 93.000 bao, tương đương 2,16%, so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong khi đó, khối lượng xuất khẩu cà phê trong tháng 1 đạt 1,065.000 bao, tăng 10,13 % so với cùng kỳ năm ngoái, đưa xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm cà phê 2014-2015 lên 4.114.000 bao, tăng 3,89% so với cùng kỳ năm ngoái.

Hiệp hội Các nhà xuất khẩu Cà phê Ấn Độ dự báo xuất khẩu niên vụ 2014-2015 giảm 10% do vụ mùa cà phê Arabica thấp hơn kỳ vọng. Tuy nhiên con số này sẽ là không đáng kể do cà phê arabica chỉ chiếm 30% tổng sản lượng, trong khi dự báo các khu vực trồng cà phê robusta năm nay được mùa.

Trên thị trường London, cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 9 USD/tấn xuống 1.922 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 7 USD/tấn xuống 1.954 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 8 USD/tấn xuống 1.977 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 9 USD/tấn xuống 2.000 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, trái ngược với phiên hôm qua, quay đầu giảm 200.000-300.000 đồng/tấn xuống 39,1-39,7 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 9 USD/tấn từ 1.841 USD/tấn hôm qua xuống 1.832 USD/tấn.

Thông tin trên nhiều báo chí ở Việt Nam những ngày qua cho biết sẽ đẩy mạnh diện tích trồng cây macca trong các trang trại cà phê để thay thế cây cà phê già cỗi nhưng với thời gian 7-8 năm mới bắt đầu cho thu hoạch với hiệu quả kinh tế cao hơn. Có thể Việt Nam sẽ nối bước Malawi để trở thành cường quốc có sản lượng macca hàng đầu thế giới.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
51,19
+0,71
+1,41%
Dầu Brent
USD/thùng
57,13
+0,56
+0,99%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
43.750,00
+2.740,00
+6,68%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,61
+0,01
+0,46%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
153,31
+0,83
+0,54%
Dầu đốt
US cent/gallon
181,73
+1,14
+0,63%
Dầu khí
USD/tấn
541,50
0,00
0,00%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
54.980,00
+2.690,00
+5,14%
Vàng New York
USD/ounce
1.266,20
+3,50
+0,28%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.771,00
-19,00
-0,40%
Bạc New York
USD/ounce
17,25
+0,05
+0,28%
Bạc TOCOM
JPY/g
65,20
-0,80
-1,21%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.252,25
-2,25
-0,18%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
793,75
+0,33
+0,04%
Đồng New York
US cent/lb
260,00
+0,50
+0,19%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.720,00
+15,00
+0,26%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.885,00
+7,00
+0,37%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.144,50
+4,50
+0,21%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
18.960,00
-40,00
-0,21%
Ngô
US cent/bushel
387,25
+2,00
+0,52%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
528,75
+3,00
+0,57%
Lúa mạch
US cent/bushel
291,00
+3,25
+1,13%
Gạo thô
USD/cwt
10,67
+0,22
+2,11%
Đậu tương
US cent/bushel
985,50
+4,25
+0,43%
Khô đậu tương
USD/tấn
331,30
-0,10
-0,03%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,05
+0,34
+1,07%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
459,10
+0,40
+0,09%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.743,00
+19,00
+0,70%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
164,75
-0,15
-0,09%
Đường thô
US cent/lb
14,41
-0,04
-0,28%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
137,55
-0,35
-0,25%
Bông
US cent/lb
61,89
+0,10
+0,16%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
311,30
-0,60
-0,19%
Cao su TOCOM
JPY/kg
208,80
+2,40
+1,16%
Ethanol CME
USD/gallon
1,46
+0,01
+0,62%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg