(VINANET) – Thị trường hàng hóa thế giới tuần kết thúc vào 26/9 (rạng sáng 27/9 giờ VN), giá nhiều mặt hàng sụt giảm do chịu ảnh hưởng bởi USD mạnh lên trong khi nhu cầu nhìn chung yếu và nguồn cung dồi dào.

Trên thị trường năng lượng, dầu thô Mỹ vững ở mức trên 92 USD/thùng và là tuần thứ 2 liên  iếp tăng nhẹ do dự trữ dầu thô Mỹ giảm, song các nhà đầu tư vẫn giao dịch cầm chừng trong bối cảnh USD tăng giá 11 tuần liên tiếp gây áp lực giảm giá hàng hóa.

Phiên cuối tuần giá dầu thô Mỹ kỳ hạn giao tháng 11 tăng 5 US cent lên 92,58 USD/thùng. Hợp đồng này tăng 0,2% trong tuần qua sau mấy phiên cuối tuần liên tiếp tăng giá bởi dự trữ dầu thô Mỹ giảm ngoài dự báo.

Dầu Brent tăng 3 US cent lên 97,03 USD/thùng. Tuy nhiên tính chung trong tuần giá giảm 1,4% bởi nguồn cung dầu thô thế giới nhìn chung dồi dào.

Khoảng cách giữa 2 loại dầu dần hẹp lại, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7, 3,46 USD/thùng.

Hôm 26/9 Bộ Thương mại Mỹ cho biết, GDP của Mỹ quý II/2014 đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm 4,6%, cao hơn so với 4,2% ước tính trước đó.

Carl Larry, nhà phân tích tại Oil Outlook & Opinions, cho biết, rõ ràng giờ đây thị trường dầu và chứng khoán đang tập trung vào tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ.

Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 10 giảm 5,61 cent (-2,1%) xuống 2,6619 USD/gallon. Tuần này giá tăng 1,9%. Giá dầu diesel giao tháng 10 tăng tăng 0,47 cent (+0,2%) lên 2,7005 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, vàng giảm giá do USD tăng và là tuần thứ 4 liên tiếp giảm giá do USD mạnh lên - đợt giảm dài nhất kể từ tháng 4/2013 sau khi Fed đánh tín hiệu sẽ nâng lãi suất sớm hơn dự kiến và kinh tế Mỹ tiếp tục đà tăng trưởng. Phiên cuối tuần, vàng giảm xuống gần sát 1.200 USD/ounce.

Giá vàng giao tháng 9 trên sàn Comex New York giảm 6,5 USD xuống 1.215,4 USD/ounce với khối lượng giao dịch cao hơn 24% so với mức trung bình 100 ngày. Trong quý III/2014 giá vàng đã giảm 8,1% trong khi USD có mức tăng lớn nhất kể từ tháng 9/2008.

Chỉ số S&P 500 tăng 0,6% sau khi số liệu cho thấy kinh tế Mỹ trong quý II tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất trong 2,5 năm qua.

Bộ Thương mại Mỹ đã nâng ước tính GDP, cho thấy kinh tế Mỹ đạt mức tăng trưởng hàng năm 4,6%, tốt nhất kể từ quý IV/2011.

Chỉ số USD tăng 0,5% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ, ghi nhận tuần thứ 11 tăng liên tiếp.

Lực bán kỹ thuật có thể gây áp lực lên giá vàng sau khi giá giao ngay trung bình 50 ngày giảm xuống dưới mức trung bình 200 ngày trong tuần trước, lần đầu tiên kể từ cuối tháng 5.

Về các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,3% lên 17,51 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,8% xuống 1.295 USD/ounce, giá palladium giảm 2,8% xuống 777,25 USD/ounce.Giá đường ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất từ 2008

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tuần qua xuống mức thấp nhất 14 tuần (6.695 USD/tấn tại London và 3,04 USD/lb tại New York) sau báo cáo cho thấy nhu cầu hàng hóa lâu bền ở Mỹ - nước tiêu thụ kim loại lớn thứ 2 thế giới – giảm trong tháng 8. Thiếc cũng giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 1 năm.

Trên thị trường nông sản, giá đường tuần qua tăng mạnh nhất trong vòng 6 năm qua khi nhà đầu tư tập trung vào sự sụt giảm sản lượng đường tại Brazil. Hiệp hội Ngành Mía đường Brazil (Unica) cho biết, sản lượng đường của Brazil đang giảm.

Giá đường thô giao tháng 10 trên sàn ICE (New York) phiên cuối tuần tăng 4,8% lên 15,41 US cent/lb, đưa mức tăng cả tuần lên 14%, cao nhất từ tháng 6/2008. Hợp đồng giao tháng 3/2015 giá tăng 3% lên 16,65 US cent/lb. Với 5 phiên liên tiếp tăng trong tuần qua, đường đã có đợt tăng giá dài nhất kể từ tháng 3.

Brazil hiện cung cấp 1/5 sản lượng đường toàn thế giới và đợt hạn hán tồi tệ nhất nhiều thập kỷ tại nước này hồi đầu năm đã khiến chất lượng mía đường giảm. Hơn nữa, do giá đường giảm trong những tháng gần đây, đã khiến nhà sản xuất tăng lượng mía sử dụng cho sản xuất ethanol thay vì sản xuất đường.

Giá cà phê phiên cuối tuần đồng loạt tăng trên cả 2 thị trường London và New York. Cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 12 tại New York tăng 3,75 US cent/lb lên 186,05 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 3,75 cent/lb lên 190,25 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 3,75 cent/lb lên 192,7 cent/lb, và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 3,7 cent/lb lên 194,2 cent/lb.

Cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 9 tại London giá tăng 11 USD/tấn, tương đương +0,56% lên 1.959 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá tăng 11 USD/tấn, tương đương +0,57%, lên 1.955 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 12 USD/tấn, tương đương +0,61%, lên 1.969 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 10 USD lên 1.980 USD/tấn, và kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 8 USD lên 1.990 USD/tấn.

Giá thế giới tăng kéo giá tại Việt Nam tăng trở lại. Sáng nay (27/9), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, sau phiên giảm hôm qua, đã tăng 200.000 đồng/tấn lên 37,9-39,1 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 11 USD từ 1.914 USD/tấn hôm qua lên 1.925 USD/tấn.

Việt Nam, nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất thế giới, xuất khẩu khoảng 100.000 tấn (1,67 triệu bao) cà phê trong tháng 9, tăng 57,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Khối lượng xuất khẩu cà phê từ tháng 10/2013 đến tháng 9/2014 đạt 1,64 triệu tấn (27,33 triệu bao), tăng 15,5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Đậu tương giảm giá 7 phiên liên tiếp, xuống mức thấp nhất 4 năm, do triển vọng nguồn cung của Mỹ khả quan. Phiên cuối tuần giá đậu tương giao tháng 11 trên sàn CBOT giảm 0,4% xuống 9,1925 USD/bushel, thấp nhất kể từ tháng 7/2010. Tính chung trong tuần giá đã giảm 3,9%.

Giá đậu tương kỳ hạn năm nay đã giảm 29% trước đồn đoán sản lượng đậu tương Mỹ đạt kỷ lục. Hôm 11/9 Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng đậu tương của nước này sẽ tăng 19% lên 3,913 tỷ bushel, đẩy sản lượng toàn cầu lên 311,13 triệu tấn. Tính đến 21/9, nông dân Mỹ đã thu hoạch được 3% diện tích đậu tương.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 20/9
Giá 27/9
Dầu thô WTI
USD/thùng
92,41
93,54
Dầu Brent
USD/thùng
98,39
97,00
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
67.020,00
66.500,00
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,84
3,98
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
261,14
266,19
Dầu đốt
US cent/gallon
271,66
270,05
Dầu khí
USD/tấn
823,25
815,75
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
81.920,00
81.480,00
Vàng New York
USD/ounce
1.216,60
1.215,40
Vàng TOCOM
JPY/g
4.261,00
4.274,00
Bạc New York
USD/ounce
17,84
17,54
Bạc TOCOM
JPY/g
63,20
61,60
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.336,38
1.300,63
Palladium giao ngay
USD/t oz,
810,88
780,92
Đồng New York
US cent/lb
309,15
303,55
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.835,00
6.718,00
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.976,00
1.948,00
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.275,00
2.266,00
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
21.250,00
20.525,00
Ngô
US cent/bushel
331,50
323,00
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
474,50
474,25
Lúa mạch
US cent/bushel
337,25
328,75
Gạo thô
USD/cwt
12,70
12,82
Đậu tương
US cent/bushel
957,00
910,25
Khô đậu tương
USD/tấn
315,40
301,10
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,58
31,99
Hạt cải WCE
CAD/tấn
397,50
395,30
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.259,00
3.311,00
Cà phê Mỹ
US cent/lb
178,00
186,05
Đường thô
US cent/lb
15,80
16,56
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
142,75
143,65
Bông
US cent/lb
64,39
61,89
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
329,00
327,20
Cao su TOCOM
JPY/kg
190,00
185,80
Ethanol CME
USD/gallon
1,61
1,55
T,Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg