Trên thị trường năng lượng, giá khí gas tự nhiên tăng lên mức cao nhất kể từ cuối tháng 1 do lo ngại việc bổ sung dự trữ không đủ để trở lại gần mức bình thường trước khi mùa đông tới, mặc dù sản lượng cao kỷ lục. Giá khí gas kỳ hạn tháng 7 tăng 2,4 cent, tương đương 0,8% lên 2,963 USD/mBTU, mức cao nhất kể từ ngày 31/1.
Giá dầu tăng nhẹ khi số liệu chính thức cho thấy lượng dầu thô dự trữ của Mỹ giảm nhiều hơn mức dự kiến.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 7/2018 tăng 0,28 USD lên 66,64 USD/thùng, dầu Brent giao tháng 8/2018 tăng 0,86 USD lên 76,74 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 4,1 triệu thùng xuống còn 432,4 triệu thùng trong tuần trước, ghi dấu mức sụt giảm lớn nhất trong một tuần kể từ cuối tháng 3/2018. Lượng xăng dự trữ cũng giảm 2,3 triệu thùng trong tuần qua. Cũng theo EIA, tổng sản lượng dầu thô trong nước Mỹ đã tăng thêm 100.000 thùng/ngày lên mức cao kỷ lục 10,9 triệu thùng/ngày trong tuần qua. Sản lượng dầu thô của Nga tăng cũng tăng lại lên trên 11 triệu bpd trong tháng 6 và sản lượng của Saudi tăng lên hơn 10 triệu thùng/ngày. Như vậy nguồn cung từ tất cả 3 nước sản xuất hàng đầu đều tăng. EIA dự kiến nhu cầu dầu toàn cầu sẽ tăng 1,4 triệu thùng/ngày trong năm nay và năm 2019 và sẽ đạt 100 triệu bpd trong quý IV/2018.
Về thị trường năm 2019, EIA cho rằng sản lượng dầu thô Mỹ sẽ tăng trung bình 970 nghìn thùng/ngày, trong đó sản lượng quý 4/2019 sẽ chạm kỷ lục cao 12 triệu thùng/ngày. Đối với năm 2018, EIA nâng sản lượng ước tính lên 10,79 triệu thùng/ngày, tăng 1,44 triệu thùng/ngày so với cùng kỳ năm trước. Cơ quan này trước đó dự báo sản lượng dầu Mỹ trong năm nay tăng 1,37 triệu thùng/ngày lên 10,72 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu Mỹ tăng liên tục trong 8 năm qua nhờ sản lượng dầu đá phiến bùng nổ, chủ yếu nhờ khai thác tăng tại các bể trầm tích Permian trải rộng khắp tây Texas và đông New Mexico.
Về nhu cầu tiêu thụ, EIA dự báo tiêu thụ dầu Mỹ trong năm 2018 tăng 530 nghìn thùng/ngày lên 20,41 triệu thùng/ngày, so với dự báo tăng 500 nghìn thùng/ngày lên 20,38 triệu thùng/ngày trước đó. EIA cũng tăng nhẹ dự báo nhu cầu tiêu thụ dầu Mỹ trong năm tới lên 20,67 triệu thùng/ngày , tăng 30 nghìn thùng/ngày so với dự báo trước đó.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thông báo tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm. Giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống còn 1.294,73 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức thấp nhất kể từ ngày 5/6 là 1.292,15 USD/ounce, vàng giao tháng Tám tăng 1,90 USD, hay 0,2% lên 1.301,30 USD/ounce.
Việc Fed tăng lãi suất cho vay cơ bản thêm 0,25 điểm phần trăm từ 1,75% đến 2% cho thấy khả năng phục hồi của nền kinh tế Mỹ khi thị trường việc làm tiếp tục khởi sắc và lạm phát gần đạt tới mức mục tiêu của Fed. Fed đã tăng lãi suất 7 lần kể từ cuối năm 2015 khi kinh tế tăng trưởng vững vàng và thị trường việc làm tốt lên.
Giá vàng khá nhạy cảm với chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm cho đồng USD tăng giá khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,3% xuống còn 16,8 USD/ounce, trong phiên có lúc đạt 16,99 USD/ounce, mức cao nhất 7 tuần; giá bạch kim tăng 0,1% lên 894,49 USD/ounce, trong phiên có lúc chạm 887,5 USD/ounce, mức thấp nhất 8 ngày và giá palađi giảm 0,9% xuống còn 1.009,22 USD/ounce, trong phiên có lúc đạt 997,15 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 6/6.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng có lúc chạm mức thấp nhất 1 tuần, 7.169 USD/tấn, bởi lo ngại về nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – suy giảm. Tuy nhiên, kết thúc phiên giao dịch, giá đồng tăng 0,5% lên 7.256 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 6/6. Giá nhôm giảm 1,1% xuống còn 2.275 USD/tấn, giá kẽm tăng 0,5% lên 3.216 USD/tấn, giá chì tăng 0,4% lên 2.485 USD/tấn, giá thiếc giảm 1,2% xuống còn 20,875 USD/tấn và giá nickel tăng 2,7% lên 15.625 USD/tấn.
Giá thép tại Trung Quốc ngày 13/6 tăng phiên thứ 2 liên tiếp, sau số liệu từ Hiệp hội ngành công nghiệp cho thấy rằng, sản lượng thép thô ngày cuối tháng 5 giảm, trong bối cảnh chính phủ nỗ lực hạn chế ô nhiễm. Giá thép cây kỳ hạn tháng 10 trên sàn Thượng Hải tăng 0,9% lên 3.859 NDT/tấn. Giá thép giao ngay tăng 0,2% lên 4.362,01 NDT/tấn trong ngày thứ ba (12/6), công ty tư vấn Mysteel cho biết.
Sản lượng thép thô của các công ty thép lớn giai đoạn 20-31/5 giảm từ mức cao đỉnh điểm 2 triệu tấn giai đoạn giữa tháng 5, nhưng vẫn đạt mức cao lịch sử 1,95 triệu tấn/ngày, Hiệp hội Sắt và Thép Trung Quốc cho biết. Dự trữ thép tại các doanh nghiệp thép lớn cuối tháng 5 giảm 2,09 triệu tấn xuống còn 11,83 triệu tấn so với giai đoạn 10-20/5. Công suất sản xuất tại các nhà máy thép lò cao Trung Quốc giảm tuần thứ 3 liên tiếp trong tuần trước đó xuống còn 41,41%, được hạn chế bởi việc kiểm tra môi trường mới đây tại các khu vực sản xuất thép lớn như Hà Bắc và Giang Tô.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê thấp nhất 2 tháng rưỡi, ca cao cũng giảm mạnh, chỉ riêng đường thô tăng nhẹ
Giá cà phê robusta kỳ hạn chạm mức thấp nhất 2 tháng rưỡi, chịu áp lực bởi hoạt động bán ra bởi các nhà đầu cơ và nhà sản xuất. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 22 USD tương đương 1,3% xuống còn 1.693 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.691 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 3. Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 giảm 0,9 cent tương đương 0,8% xuống còn 1,186 USD/lb. Thị trường cà phê thế giới sẽ thặng dư 13 triệu bao (60 kg) trong năm 2018/19, do sản lượng tại nước sản xuất hàng đầu – Brazil – tăng, cùng với sản lượng cà phê từ các nước khác tăng, CoffeeNetwork cho biết. Brazil đã xuất khẩu 1,46 triệu bao (60 kg) cà phê xanh trong tháng 5/2018, giảm 37% so với cùng tháng năm ngoái, bị ảnh hưởng bởi cuộc đình công của lái xe tải trên toàn quốc.
Giá ca cao kỳ hạn tháng 9 tại New York giảm 53 USD, tương đương 2,2% xuống còn 2.391 USD/tấn trong phiên giao dịch thưa thớt, trước đó trong phiên tăng lên 2.475 USD/tấn. Giá ca cao kỳ hạn tháng 9 tại London giảm 39 GBP tương đương 2,2% xuống còn 1.710 GBP/tấn. Ghana và Ivory Coast – 2 nước sản xuất ca cao hàng đầu thế giới – sẽ thỏa thuận khối lượng và thời gian xuất khẩu ca cao năm 2019/20 để giảm bớt dư cung toàn cầu, người đứng đầu Cocobod Ghana cho biết.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,09 cent, tương đương 0,7% lên 12,76 cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 1,4 USD tương đương 0,4% lên 353,4 USD/tấn. Tập đoàn đường Pháp Cristal Union cho biết, sẽ loại bỏ giá tối thiểu đối với nông dân trồng củ cải đường, do dự kiến giá đường sẽ giảm hơn nữa trong năm 2018, sau khi chạm mức thấp lịch sử trong năm ngoái.
Giá đậu tương và lúa mì kỳ hạn tại Mỹ giảm mạnh trong ngày 13/6, giá lúa mì giảm 3,2% và đậu tương chạm mức thấp nhất trong hơn 9 tháng. Hợp đồng lúa mì giao tháng 7 trên sàn Chicago đóng cửa giảm 18 cent xuống còn 5,16-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago giảm 18 cent xuống còn 9,36 USD/bushel, mức thấp nhất kể từ ngày 31/8. Giá đậu tương đã giảm 7 phiên liên tiếp trong 8 phiên và giảm tổng cộng 8,3%.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn TOCOM chạm mức thấp nhất gần 2 tháng trong bối cảnh lo ngại về sản lượng gia tăng và tồn kho tại các nước tiêu thụ ở mức cao. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn TOCOM kết thúc phiên giảm 5,2 JPY xuống còn 181,3 JPY (1,64 USD)/kg, trong phiên có lúc đạt 180 JPY/kg, mức thấp nhất kể từ ngày 18/4.
Tại Thượng Hải hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 giảm xuống còn 10.600 NDT (1.655 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2016, trước khi kết thúc phiên ở mức 10.835 NDT/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên sàn SICOM giảm 2,6 Uscent xuống còn 137,5 Uscent/kg.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

66,64

+0,28

+0,36%

Dầu Brent

USD/thùng

76,74

+0,86

0,97%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

49.550,00

+460,00

+0,94%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,96

-0,01

-0,24%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

212,23

-0,29

-0,14%

Dầu đốt

US cent/gallon

218,25

-0,26

-0,12%

Dầu khí

USD/tấn

668,75

+2,75

+0,41%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

67.550,00

+540,00

+0,81%

Vàng New York

USD/ounce

1.301,90

+0,60

+0,05%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.594,00

-3,00

-0,07%

Bạc New York

USD/ounce

16,99

0,00

-0,01%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,20

+0,50

+0,84%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

899,50

-4,20

-0,46%

Palladium giao ngay

USD/ounce

1.010,54

-1,53

-0,15%

Đồng New York

US cent/lb

324,95

-0,45

-0,14%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

7.257,00

+35,00

+0,48%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.275,00

-27,00

-1,17%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.216,00

+17,00

+0,53%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

20.875,00

-250,00

-1,18%

Ngô

US cent/bushel

381,25

-4,25

-1,10%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

526,25

-6,50

-1,22%

Lúa mạch

US cent/bushel

233,00

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,14

+0,05

+0,41%

Đậu tương

US cent/bushel

956,00

-2,75

-0,29%

Khô đậu tương

USD/tấn

349,30

-0,20

-0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,86

-0,01

-0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

504,50

-1,40

-0,28%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.391,00

-53,00

-2,17%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,60

-0,90

-0,75%

Đường thô

US cent/lb

12,76

+0,09

+0,71%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

153,25

-1,05

-0,68%

Bông

US cent/lb

92,30

-0,63

-0,68%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

554,60

-15,00

-2,63%

Cao su TOCOM

JPY/kg

181,60

+0,30

+0,17%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

-0,01

-0,48%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

Nguồn: Vinanet