Cụ thể, trong những ngày đầu tháng 6/2019, giá tôm thẻ loại 100 con/kg ở khu vực ĐBSCL chỉ dao động quanh mức từ 72.000 đồng – 75.000 đồng/kg, kéo theo giá tôm cỡ lớn cùng giảm.
Nguyên nhân giá tôm giảm, được các doanh nghiệp cho biết chủ yếu do các nhà nhâp khẩu dự báo sản lượng tôm năm nay sẽ tăng. Mặt khác, khi bước vào tháng 6, cả Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu vào vụ thu hoạch nên họ chưa vội mua vào mà chờ lúc cao điểm thu hoạch mới mua vào để ép giá thêm. Tuy nhiên, sau ngày 10/6/2019, khi nhận thấy sản lượng tôm không nhiều như dự kiến, các nhà nhập khẩu bắt đầu nâng mức giá mua lên và mạnh dạn ký kết hợp đồng nhập khẩu với số lượng lớn. Đây cũng chính là lý do giúp giá tôm khu vực ĐBSCL tăng nhẹ trở lại ở tất cả các kích cỡ kể từ ngày 11/6/2019 đến nay.
Hiện tại, giá tôm thẻ loại 100 con/kg không nhiễm kháng sinh và có màu sắc đẹp được doanh nghiệp thu mua với giá 80.000 đồng/kg, còn tôm thẻ cỡ lớn loại 21 con/kg giá 185.000 đồng/kg. Giải thích về biến động giá tôm thời gian qua, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam cho biết, trong 10 ngày đầu tháng 6, giá tôm gần như xuống đáy. Ngoài yếu tố thị trường còn có một phần do các doanh nghiệp chưa có nhiều đơn hàng, thiếu hụt lao động, nên không thể tăng sản lượng mua vào được. Tuy nhiên, từ ngày 11-6, giá tôm đã tăng từ 2.000 đồng đến 3.000 đồng/kg tùy theo kích cỡ. Dự báo, giá tôm khả năng sẽ không còn xuống nữa do các nhà máy đã ký kết được đơn hàng, sản lượng tôm không nhiều như dự kiến của nhà nhập khẩu và các nhà máy hiện cũng đang tranh thủ thu mua, chế biến để dự phòng giá tôm tăng mạnh trở lại sau khi mùa vụ kết thúc.
Cùng như nhận định trên, các doanh nghiệp chế biến tôm khu vực ĐBSCL cũng cho rằng, giá tôm nhiều khả năng không còn giảm nữa nhưng cũng khó tăng mạnh từ nay cho đến đầu quý 4/2019. Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta nhận định, khoảng đầu quý 4/2019, khả năng giá tôm khu vực ĐBSCL mới hồi phục trở lại, vì thời điểm này về cơ bản đã kết thúc vụ tôm chính, trong khi nhu cầu thu mua nguyên liệu từ các nhà máy chế biến lại tăng nhằm đáp ứng cho các đơn hàng cuối năm. Tuy nhiên, giá tôm hồi phục đến đâu còn tùy thuộc vào thị trường. Theo tính toán, với giá tôm hiện nay nếu nuôi trúng, người nuôi vẫn có lãi khoảng 20% - 30% và nếu nuôi đạt size cỡ lớn, mức lãi còn cao hơn nữa, với điều kiện tôm nuôi không nhiễm kháng sinh, màu sắc đẹp. Riêng thị trường tôm sú cỡ lớn 30 con/kg hiện vẫn giữ được giá tốt.
Việc giá tôm tăng trở lại dù chưa nhiều nhưng cũng là tín hiệu lạc quan, giúp người nuôi tôm an tâm sản xuất. Tuy nhiên, những dự báo về giá tôm thẻ cỡ lớn sẽ tăng mạnh trong thời gian tới thật sự là một bất ngờ, bởi ngay từ đầu vụ cả doanh nghiệp trong nước và các nhà nhập khẩu đều dự báo, tôm thẻ cỡ lớn của Việt Nam sẽ khó cạnh tranh với tôm của Ấn Độ. Hiện tôm thẻ size lớn dễ bán hơn, giá cao hơn, nên người nuôi có lời nhiều hơn. Nguyên nhân chính là do Ấn Độ năm nay nuôi không thành công như dự kiến ban đầu khiến nguồn cung tôm thẻ cỡ lớn mất cân đối. Trong khi đó, Việt Nam nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng đang nuôi tôm thẻ ứng dụng công nghệ cao rất thành công, đặc biệt là tôm thẻ cỡ 20 – 30 con/kg hiện rất ít người nuôi được.
Trong bối cảnh Hiệp định Thương mại Việt Nam - EU (EVFTA) chuẩn bị có hiệu lực, tôm là một trong những mặt hàng thủy sản được hưởng lợi từ những ưu đãi thuế quan do Hiệp định này mang lại. Tuy nhiên, tham gia Hiệp định cũng đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp xuất khẩu (XK).
EVFTA sau khi có hiệu lực sẽ được coi là cơ hội để các DN XK thủy sản Việt Nam nâng cao giá trị XK vào thị trường này. Theo cam kết trong EVFTA, thủy sản Việt Nam xuất sang EU sẽ được xóa bỏ thuế quan hoàn toàn (trừ cá ngừ đóng hộp và cá viên áp dụng hạn ngạch thuế quan là 11.500 tấn) với lộ trình dài nhất là 7 năm. Riêng mặt hàng tôm sẽ khả quan hơn bởi thuế nhập khẩu vào thị trường này sẽ giảm mạnh từ năm đầu tiên, sau đó giảm dần về 0% trong những năm tiếp theo.
EU chủ yếu nhập khẩu (NK) tôm nguyên liệu đông lạnh và tôm chế biến từ Việt Nam. Đối với sản phẩm tôm, tôm sú đông lạnh được giảm thuế từ mức cơ bản 20% xuống 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực. Các sản phẩm tôm khác theo lộ trình 3-5 năm, riêng tôm chế biến lộ trình giảm thuế 7 năm.
Hiện tại, mức thuế GSP mà EU dành cho Việt Nam đối với tôm nguyên liệu đông lạnh (HS 030617) là 4,2%; tôm chế biến đông lạnh (HS 160521) là 7%. Việt Nam có lợi thế hơn so với 2 nước đối thủ là Thái Lan và Trung Quốc vì 2 nước này không được hưởng GSP của EU.
Bên cạnh ưu đãi về thuế, EVFTA còn mang lại cho DN XK của Việt Nam cơ hội tăng khả năng cạnh tranh so với đối thủ chưa có FTA với EU (Ấn Độ, Thái Lan). DN có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất để tăng cạnh tranh vì có thể tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ phục vụ sản xuất do Việt Nam cam kết mở cửa dịch vụ logistics, bảo hiểm, tài chính và dịch vụ phục vụ sản xuất khác…
DN cũng có điều kiện tham gia chuỗi cung ứng khu vực nhờ sự dịch chuyển đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia, được đảm bảo môi trường kinh doanh và thể chế ổn định, minh bạch hơn (nhờ cải thiện quy định, chính sách phù hợp theo các điều khoản FTA). Tuy nhiên, sẽ có những thách thức mới cho ngành thủy sản Việt Nam khi tham gia EVFTA như: các điều kiện về hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, quy tắc xuất xứ chặt hơn, có nhiều quy định mới và phức tạp hơn, trong khi sản phẩm của Việt Nam so với các nước đối tác FTA kém cạnh tranh hơn về giá thành…
Để tận dụng được ưu đãi, DN cần đặc biệt chú trọng thực hiện và đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn về lao động và môi trường, các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững.
Ngành tôm là ngành lao động đặc thù và vẫn đang sử dụng lao động vị thành niên tại một công đoạn chế biến đơn giản và nhẹ nhàng. Tuy nhiên, khi tham gia EVFTA, các quy tắc về lao động sẽ còn chặt chẽ hơn, đòi hỏi DN phải thay đổi để thích ứng với yêu cầu đặt ra trong EVFTA.
Cụ thể, theo cam kết trong EVFTA, nhóm các nguyên tắc về điều kiện lao động bao gồm: Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động và người sử dụng lao động, xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc, cấm sử dụng lao động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.
Các DN cần tăng cường hợp tác, chú trọng liên kết chuỗi để nâng cao năng suất, chất lượng, kiểm soát tốt ATVSTP; cần chủ động tìm hướng hợp tác với các đối tác nước ngoài, đổi mới công nghệ, tham gia vào dây chuyền cung ứng toàn cầu.
Năm tháng đầu năm nay, XK tôm Việt Nam sang EU đạt 243,4 triệu USD, giảm 26,3% so với cùng kỳ năm 2018. Anh, Đức, Hà Lan là 3 thị trường NK chính tôm Việt Nam trong khối. XK tôm sang Anh trong tháng 5 vừa qua đã có dấu hiệu tích cực: tăng 11,6% đạt hơn 18 triệu USD.
Với những ưu đãi thuế quan và môi trường kinh doanh, các DN Việt Nam sẽ có lợi thế hơn so với nhiều quốc gia cùng XK tôm khác như Ấn Độ, Thái Lan. Dự báo, EVFTA sẽ góp phần giúp XK tôm của Việt Nam vào EU tăng thêm 4 - 6% trong năm nay.
Nguồn: VITIC Tổng hợp/vietlinh.vn, Thời báo chứng khoán

Nguồn: Vinanet