Giá gạo xuất khẩu ở Bán cầu tây những tuần gần đây duy trì ở mức cao, gạo Mỹ giảm nhẹ về 505 USD/tấn nhưng gạo Uruguay tăng lên 528 USD/tấn. Gạo của các nước ở Bán cầu Tây tiế tục cao hơn so với gạo Châu Á. Gạo Thái Lan duy trì ở mức 404 USD/tấn và tiếp tục cao hơn so với các nước Châu Á khác do đồng baht mạnh lên. Gạo Ấn Độ vẫn ở mức thấp 375 USD/tấn, trong khi gạo Pakistan tăng lên 372 USD/tấn, và gạo Việt Nam giảm xuống 337 USD/tấn do gạo vụ mới có chất lượng không cao và nguồn cung dồi dào.

Bộ Nông nghiệp Mỹ dự đoán, trong niên vụ 2019/20, sản lượng gạo toàn cầu sẽ giảm nhẹ do Trung Quốc và Ấn Độ. Trái lại, tiêu thụ sẽ tiếp tục tăng, nhất là tại Châu Phi cận Sahara, nơi mà người tiêu dùng bị hấp dẫn bởi giá gạo Châu Á rẻ, và cũng do dân số tăng. Thương mại gạo thế giới dự báo sẽ gần cao kỷ lục, và Ấn Độ tiếp tục giữ vị trí nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Tồn trữ gạo toàn cầu dự báo sẽ tăng, trong đó Trung Quốc chiếm 68% tổng tồn trữ toàn cầu (mặc dù mức tăng tồn trữ của cả thế giới nói chung và Trung Quốc nói riêng đều chậm nhất trong vòng một thập kỷ).

Sản lượng, diện tích và năng suất lúa gạo trên toàn cầu năm 2019/20 dự báo đều giảm so với mức kỷ lục của năm trước, nhưng vẫn cao hơn so với năm 2017/18, trong đó giảm mạnh nhất sẽ tập trung vào Trung Quốc và Ấn Độ, với cả diện tích trồng và năng suất dự báo sẽ đều giảm. Diện tích và năng suất của Mỹ dự báo cũng sẽ giảm. Trái lại, những nước có sản lượng tăng mạnh nhất sẽ là Thái Lan và Lào, cùng xu hướng tăng sẽ có Bangladesh, Indonesia, Myanmar và Việt Nam.

Tiêu thụ gạo thế giới dự báo sẽ tăng 1%, trong đó thêm nhiều nhất ở Ấn Độ và Trung Quốc. Sử dụng gạo làm lương thực chiếm phần lớn tổng tiêu thụ. Tại một số khu vực, nơi tiêu thụ gạo trung bình người nhìn chung đã ở mức cao, nhất là tại Châu Á, người dân giảm dùng gạo trong các bữa ăn (ví dụ như tại Hàn Quốc, Nhật Bản). Trái lại, ở nhiều nước Châu phi, tiêu thụ gạo vẫn tiếp tục tăng, nhất là ở các khu vực đô thị.


Nguồn cung
gạo toàn cầu dự báo sẽ cao hơn chút ít so với tiêu thụ, do đó tồn trữ cuối vụ 2019/20 trên toàn cầu sẽ tăng nhẹ - là lần đầu tiên trong vòng 13 năm tồn trữ không tăng mạnh. Trung Quốc dự báo sẽ chiếm gần 70% tổng tồn trữ gạo thế giới. Tồn trữ của nước này dự báo sẽ chỉ tăng 2 triệu tấn, mức tăng thấp nhất trong vòng một thập kỷ, do sản lượng sụt giảm, xuất khẩu gia tăng và Chính phủ liên tiếp mở thầu bán gạo cũ.

Dự trữ gạo của Ấn Độ dự báo sẽ tăng và vượt xa so với mức dự trữ đệm cần thiết, do đó tăng được lượng dư thừa dành cho xuất khẩu.

Dự trữ gạo của Chính phủ Thái Lan giảm, nhưng dự trữ của lĩnh vực tư nhân dự báo sẽ tăng nhẹ trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt trên thị trường xuất khẩu. Dự trữ của Philippines dự báo sẽ tăng do được mùa, trong khi đó dự trữ của hai nước sản xuất lớn thứ 3 và 4 thế giới – Indonesia và Bangladesh) dự báo sẽ giảm nhẹ nhưng vẫn đủ để họ chỉ cần nhập khẩu khối lượng nhỏ. Dự trữ cuối vụ ở Mỹ dự báo tiếp tục tăng nhưng với tốc độ chậm lại. Dự trữ của Mỹ dự báo sẽ đạt mức cao nhất kể từ niên vụ 1985/96.

Thương mại gạo thế giới trong năm 2020 dự báo sẽ tăng 3% lên 48 triệu tấn, tương đương năm 2017. Nhu cầu nhập khẩu cao nhất đến từ Châu Phi cận Sahara và Trung Đông, trong khi nhập khẩu của khu vực Đông Nam Á dự báo sẽ giảm. Ấn Độ tiếp tục là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, tiếp đến là Thái Lan, Việt Nam và Pakistan. Trong khi đó, Trung Quốc dự báo sẽ duy trì xu hướng tăng xuất khẩu mặc dù vẫn là nước nhập khẩu hàng đầu thế giới. Ở bán cầu Tây, xuất khẩu của Mỹ dự báo sẽ tăng, trong khi của Guyana và Uruguay sẽ ổn định như năm trước, còn của Argentina và Brazil sẽ giảm.

Dự báo một số thị trường nhập khẩu chủ chốt trong năm 2020

Trung Quốc được dự báo sẽ nhập khẩu 4 triệu tấn. Cả diện tích và sản lượng lúa của nước này sẽ đều giảm do giá hỗ trợ tối thiểu không thay đổi. Tuy nhhiên, tổng cung vẫn tăng so với năm trước do lượng tồn trữ đầu vụ (trong kho dự trữ tạm thời của Chính phủ) tăng. Nước này sẽ tiếp tục nhập khẩu gạo chủ yếu từ các nước láng giềng.

Philippines dự báo sẽ giảm 100.000 tấn nhập khẩu xuống 2,7 triệu tấn do lượng dự trữ còn nhiều trong khi sản lượng tăng lên. Nước này đã dỡ bỏ hạn chế khối lượng nhập khẩu gạ và thay vào đó bằng thuế, theo đó ưu đãi thuế khi nhập từ các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tiêu thụ gạo của Philippines dự báo sẽ tăng do nguồn cung trong nước dồi dào và gạo nhập khẩu giá tương đối rẻ cũng sẵn có trên thị trường.

Nigeria dự báo sẽ có nhu cầu nhập khẩu tăng 200.000 tấn lên 2,4 triệu tấn, do cần thêm gạo đồ, mặc dù sản lượng trong nước cũng tăng nhẹ. Với xu hướng đô thị hóa và dân số tăng nhanh, nhu cầu gạo đồ nhập khẩu vào nước này tiếp tục tăng. Mặc dù Chính phủ đã hạn chế sử dụng ngoại hối để nhập hkẩu gạo, song xu hướng trung chuyển gạo nhập khẩu từ các nước láng giềng vẫn tiếp diễn.

Liên minh Châu Âu dự báo sẽ vẫn nhập khẩu 2 triệu tấn gạo trong bối cảnh sản lượng tăng nhẹ nhưng tiêu thụ cũng tăng chậm. Nhập khẩu từ Campuchia và Myanmar mấy năm gần đây tăng do sáng kiến Mọi thứ trừ vũ khí. Tháng 1/2019, Liên minh Châu Âu áp thuế nhập khẩu đối với gạo nhập khẩu từ cả 2 nước này, dự kiến khối lượng gạo nhập khẩu chịu thế sẽ giảm nhẹ trong năm 2020.

Bờ Biển Ngà dự báo sẽ vẫn nhập khẩu 1,6 triệu tấn gạo do tiêu thụ tăng bù lại cho sản lượng tăng. Nhu cầu nhập khẩu vẫn mạnh đối với các chủng loại gạo xay và gạo tấm Châu Á (Châu Á cung cấp gần như toàn bộ gạo nhập khẩu vào nước này).

Saudi Arabia dự báo sẽ tăng nhập khẩu thêm 25.000 tấn lên 1,4 triệu tấn bởi dự kiến khách du lịch tăng sẽ bù lại cho số lao động nước ngoài sụt giảm. Gạo nhập khẩu chủ yếu là loại basmati, nhưng cũng có một số gạo đồ hạt dài và gạo xay hạt vừa.

Iraq dự  báo sẽ tăng nhập khẩu thêm 50.000 tấn lên 1,4 triệu tấn. Với lượng mưa năm nay tăng, diện tích và năng suất lúa Iraq dự báo sẽ hồi phục nhẹ. Bộ Thương mại nhập khẩu thông qua các cuộc mở thầu quốc tế và mua trực tiếp để cung ứng gạo cho Hệ thống Phân phối công cộng. Ngoài ra, tư nhân cũng tham gia nhập khẩu để bổ sung lượng cung ứng cho thị trường nội địa.

Senegal dự kiến sẽ tăng nhập thêm 50.000 tấn lên 1,3 triệu tấn, phản ảnh nhu cầu gạo tấm liên tiếp tăng, nhất là từ các nhà cung cấp Châu Á. Senegal là nước nhập khẩu gạo tấm lớn nhất thế giới, và gần đây đã đưa ra những chính sách hạn chế khối lượng nhập khẩu gạo tấm.

• Iran dự kiến sẽ nhập khẩu 1,2 triệu tấn, bằng năm trước, do nhu cầu tăng nhưng sản lượng cũng tăng. Nước này đã rất nỗ lực để tự cung tự cấp, mặc dù vẫn phải nhập khẩu gạo basmati để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

• Nam Phi

South Africa is down 50,000 tons to 1.1 million, as the preferred staple of white maize remains readily available.

Malaysia dự báo sẽ vẫn nhập khẩu 1 triệu tấn giữa bối cảnh tiêu thụ chỉ tăng nhẹ.

• Các Tiểu vương quốc arập thống nhất (UAE) dự kiến sẽ tăng nhập thêm 75.000 tấn lên 925.000 tấn vì người dân tăng dùng gạo và và khách du lịch tăng trước khi diễn ra World Expo 2020. Nhiều người nước ngoài nằm trong số những người tiêu thụ gạo chủ chốt ở thị trường này.

Mỹ dự kiến vẫn nhập khẩu 900.000 tấn gạo. Mỹ là nước nhập khẩu nhiều gạo nhất ở bán cầu Tây, chủ yếu là loại gạo thơm hạt dài từ Thái Lan và Ấn Độ, và gần đây Puerto Rico cũng nhập một ít gạo hạt vừa từ Trung Quốc.

Guinea dự kiến sẽ tăng nhập thêm 50.000 tấn lên 900.000 tấn do tiêu thụ trung bình người liên tiếp tăng và nhu cầu gạo đồ nhập khẩu vẫn mạnh.

• Kenya sẽ tăng nhập khẩu thêm 50.000 tấn lên 800.000 tấn do sản lượng trì trệ trong khi tiêu thụ tăng bởi dân số đông thêm.

• Brazil dự kiến sẽ tăng nhập khẩu thêm 50.000 tấn lên 800.000 tấn do nhu cầu vững trong khi sản lượng giảm.

Ghana dự kiến sẽ duy trì nhập khẩu ở 800.000 tấn giữa bối cảnh sản lượng gạo tăng. Gạo nhập chủ yếu là các loại thơm, phần lớn từ Việt Nam.

Nepal dự kiến sẽ tăng nhập thêm 50.000 tấn lên 800.000 tấn do giá gạo Ấn Độ rẻ và tiêu thụ tăng.

• Mexico dự báo sẽ giảm nhập 30.000 tấn xuống 785.000 tấn do sản lượng trong nước tăng và lượng tồn trữ gối vụ còn nhiều.

Mozambique dự báo sẽ tăng nhập khẩu thêm 25.000 tấn lên 700.000 tấn để bù đắp cho sản lượng giảm.

• Nhật Bản sẽ vẫn nhập khẩu 685.000 tấn để thực hiện cam kết với WTO.

Venezuela dự báo sẽ vẫn nhập khẩu 530.000 tấn do vẫn còn nhiều khó khăn về kinh tế. Nước này chủ yếu nhập khẩu thóc, mặc dù cũng mua gạo xay của Mexico.

Indonesia dự báo sẽ giữ lượng  nhập khẩu ở 500.000 tâns do sản lượng tăng làm giảm phần nào nhu cầu nhập khẩu. Tiêu thụ giảm nhẹ bởi người tiêu dùng tiếp tục chuyển sang tăng sử dụng mì ăn liền và những thực phẩm khác làm từ lúa mì.

Cuba dự kiến sẽ duy trì mức nhập khẩu 500.000 tấn trong hoàn cảnh tiêu thụ sụt giảm.

Haiti dự kiến sẽ tăng nhập khẩu thêm 20.000 tấn lên 500.000 tấn, giữa bối cảnh tiêu thụ tăng nhẹ về mức bình thường khi kinh tế dần ổn định trở lại.

Ai Cập dự kiến sẽ vẫn nhập khẩu 500.000 tấn khi sản lượng tăng nhẹ nhưng tồn trữ còn ít nên nguồn cung bị thắt chặt. Từ một nước xuất khẩu gạo trắng hạt vừa với khối lượng không nhỏ, Ai Cập đã trở thành nước nhập khẩu ròng năm thứ 2 liên tiếp, chủ yếu từ Trung Quốc và Việt Nam.

Madagascar dự kiến sẽ tăng nhập khẩu thêm 50.000 tấn lên 450.000 tấn do sản lượng giảm nhẹ.

Hàn Quốc sẽ duy trì nhập khẩu vững ở 410.000 tấn, bằng mức hạn ngạch thuế. Cả tiêu thụ trong chăn nuôi cũng như dự trữ dự báo sẽ đều giảm.

Canada dự báo sẽ tăng nhập khẩu thêm 5.000 tấn lên 385.000 tấn do tiêu thụ có xu hướng tăng.

• Peru dự báo sẽ tăng nhập khẩu thêm 20.000 tấn lên 300.000 tấn để bù lại cho lượng cung gối vụ không còn nhiều.

• Tanzania dự kiến nhập khẩu thêm 20.000 tấn lên 270.000 tấn do xu hướng đô thị hóa nhanh chóng. Gạo nhập khẩu đáp ứng khoảng 10% lượng tiêu thụ, và sản lượng trong nước dự báo sẽ ổn định.

Nga dự báo sẽ duy trì nhập khẩu ở 230.000 tấn do tiêu thụ tăng mặc dù sản lượng cũng tăng.

Thổ Nhĩ Kỳ  dự kiến tăng nhập thêm 30.000 tấn lên 210.000 tấn giữa bối cảnh sản lượng giảm nhẹ còn tiêu thụ tăng vừa phải.

Jordan dự báo sẽ tăng nhập thêm 5.000 tấn lên 205.000 tấn do tiêu thụ tăng.

Bangladesh dự báo sẽ giảm 100.000 tấn xuống 200.000 tấn gạo nhập khẩu do diện tích trồng lúa tăng kéo sản lượng tăng. Mức tăng tiêu thụ gạo sẽ ở mức vừa phải vì người dân cũng tăng cường sử dụng lúa mì – dần thay thế cho lúa gạo.

Colombia dự kiến sẽ tăng nhập khẩu thêm 10.000 tấn lên 160.000 tấn bởi hạn ngạch thuế tăng lên theo Hiệp định xúc tiến thương mại Mỹ - Columbia và tiếp tục mua của Ecuador.

• Đài Loan dự kiến nhập khẩu 120.000 tấn, bằng lượng cam kết nhập khẩu tối thiểu.

Sri Lanka dự kiến vẫn mua 50.000 tấn để duy trì lượng dự trữ. Sản lượng dự báo sẽ tăng năm thứ 2 liên tiếp.

Dự báo một số thị trường xuất khẩu gạo lớn trên thế giới trong năm 2020

Ấn Độ được dự báo sẽ tăng xuất khẩu thêm 500.000 tấn lên 12,5 triệu tấn. Tổng cung dự báo sẽ tăng lên vì lượng tồn trữ cao nhất trong vòng gần 6 năm bù lại cho sản lượng giảm 1%. Mặc dù xuất khẩu và tiêu thụ đều tăng, tồn trữ cuối vụ dự báo vẫn tăng nhẹ, nên lượng dự trữ đệm sẽ cao hơn mức cần thiết. Ấn Độ được dự báo sẽ là nước xuất khẩu gạo lớn nhất năm thứ 9 liên tiếp, những loại gạo xuất chủ yếu là gạo basmati thơm, gạo đồ và gạo trắng chất lượng trung bình.

Thái Lan được dự báo sẽ giữ mức xuất khẩu ở 10 triệu tấn như năm trước. Mặc dù sản lượng gạo cao kỷ lục song xuất khẩu của nước này sẽ bị mất bớt thị phần do sự cạnh tranh tăng lên từ phía Ấn Độ và Trung Quốc. Gạo xuất khẩu của Thái Lan sẽ tiếp tục là các loại hương nhài thơm, đồ và trắng chất lượng trung bình.

Việt Nam dự báo cũng sẽ duy trì mức xuất khẩu ở 6,5 triệu tấn do sản lượng tăng, bất chấp sự cạnh tranh cũng tăng. Mặc dù Trung Quốc dự báo sẽ vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của gạo Việt, song Trung Quốc cũng sẽ ngày càng cạnh tranh mạnh mẽ hơn với gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Châu Phi. Triển vọng xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines sẽ vẫn thuận lợi, và tiếp tục đa dạng hóa các thị trường tiêu thụ, với các loại gạo chủ yếu là hương nhài, nếp, gạo trắng hạt dài và hạt vừa.

• Pakistan dự báo sẽ xuất khẩu 4 triệu tấn, tương tự như năm trước, giữa bối cảnh sản lượng tăng bù lại cho tồn trữ đầu vụ giảm. Pakistan thường xuất khẩu gạo trắng và một ít gạo basmati thơm, cạnh tranh chủ yếu với Ấn Độ. Các thị trường tiêu thụ chủ yếu là Châu Phi, Trung Đông và các nước láng giềng.

Mỹ dự báo sẽ tăng xuất khẩu thêm 250.000 tấn lên 3,3 triệu tấn do tồn trữ gối vụ cao và lượng cung trong nước dồi dào cũng như giá xuất khẩu cạnh tranh tốt, đủ sức tăng thị phần ở Mỹ Latinh. Mỹ xuất khẩu chủ yếu là gạo hạt tròn và gạo xay sang bán cầu Tây, một phần sang Trung Đông, và cũng xuất khẩu gạo trắng hạt vừa sang các thị trường Đông Á.

Trung Quốc sẽ tăng xuất khẩu thêm 700.000 tấn lên 3,2 triệu tấn do lượng tồn trữ từ những vụ trước còn nhiều, giá bán rẻ. Những năm gần đây, Trung Quốc tăng cường xuất khẩu gạo rẻ, không chỉ sang các nước láng giềng ở Đông Á mà tới cả Châu Phi và Trung Đông. Đây là khối lương xuất khẩu nhiều nhất kể từ 1998.

Myanmar dự báo sẽ vẫn xuất khẩu 2,8 triệu tấn gạo. Nước này cung cấp chủ yếu cho các thị trường láng giềng và một ít sang Liên minh Châu Âu và Châu Phi. Ảnh hưởng tiêu cực từ việc Liên minh Châu Âu áp thuế đối với gạo Myanmar sẽ được bù đắp bởi hạn ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc được tăng lên.

Campuchia dự kiến sẽ vẫn xuất khẩu 1,3 triệu tấn nhờ sản lượng tăng, tiếp tục đón nhận nhu cầu từ các nước láng giềng và tăng cường thâm nhập vào Trung Quốc.

Uruguay dự báo sẽ duy trì xuất khẩu ở 800.000 tấn do sản lượng thấp và tồn trữ đầu vụ ít hơn năm trước. Chi phí sản xuất cao và giá gạo thế giới thấp đã ảnh hưởng tới lợi nhuận, khiến một số nông dân từ bỏ trồng lúa. Mặc dù xuất khẩu không thay đổi, xuất khẩu sang Mexico và Cuba mấy năm qua liên tục tăng.

Brazil dự kiến sẽ giảm xuất khẩu 150.000 tấn xuống 600.000 tấn do sản lượng giảm và sự cạnh tranh từ các nước xuất khẩu láng giềng. Diện tích trồng lúa dự báo sẽ tiếp tục giảm bởi nông dân chuyển sang những cây khác có lợi hơn như ngô và đậu tương.

Paraguay dự báo sẽ giảm xuất khẩu 50.000 tấn xuống 600.000 tấn do sản lượng giảm. Mặc dù 70% xuất khẩu sang Brazil, Paraguay đã đa dạng hóa sang hơn 40 thị trường trong năm 2018.

Guyana dự kiến sẽ tăng xuất khẩu 10.000 tấn lên 510.000 tấn nhờ những thị trường mới như Mexico.

Argentina dự kiến sẽ giảm xuất khẩu 40.000 tấn xuống 300.000 tấn do sự cạnh tranh mạnh trong khu vực và lượng tồn trữ còn ít.

Australia dự kiến sẽ giảm xuất khẩu 55.000 tấn xuống chỉ 20.000 tấn do thiếu nước. Mặc dù truyền thống thường xuất khẩu gạo hạt vừa, nhưng Australia dự báo sẽ trở thành nước nhập khẩu ròng gạo năm thứ 2 liên tiếp.

Nguồn: VITIC/USDA, CafeF