Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9/2018 cả nước xuất khẩu 2,76 triệu tấn xi măng, thu về 113,1 triệu USD, giảm 7,9% về lượng và giảm 7,7% về kim ngạch so với tháng trước đó, nhưng tăng rất mạnh 80,1% về lượng và tăng 110,4% về kim ngạch so với cùng tháng năm ngoái. 

Giá xi măng xuất khẩu trong tháng 9/2018 đạt trung bình 41 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 8/2018 và tăng 16,8% so với tháng 9/2017.

Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu xi măng clinker tăng 7,9% về giá, tăng 71,4% về lượng và tăng 84,8% về kim ngạch, đạt 23,39 triệu tấn, tương đương 890,8 triệu USD, giá trung bình 38,1 USD/tấn.  

Trung Quốc dẫn đầu về tiêu thụ xi măng, clinker của Việt Nam, với 6,56 triệu tấn, tương đương 235,43 triệu USD, chiếm 28% trong tổng lượng và chiếm 26,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu xi măng của cả nước, tăng gấp 77,4 lần về lượng và tăng gấp 90,1 lần về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng tháng 9/2018 xuất sang thị trường này giảm trên 26% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 8/2018, đạt 861.665 tấn, tương đương 32,43 triệu USD. Giá xuất khẩu sang Trung Quốc 9 tháng đạt trung bình 35,9 USD/tấn, tăng 16,4% so với cùng kỳ.

Philippines đứng thứ 2 về thị trường tiêu thụ, đạt 4,75 triệu tấn, tương đương 218,35 triệu USD, chiếm 20,3% trong tổng lượng và chiếm 24,5% trong tổng kim ngạch, tăng 38,5% về lượng và tăng 42,5% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất khẩu tăng nhẹ 2,9%, đạt 46 USD/tấn.

Xếp thứ 3 là thị trường Bangladesh chiếm 24% trong tổng lượng và chiếm 20,9% trong tổng kim ngạch, đạt 5,64 triệu tấn, tương đương 186,21 triệu USD, tăng 2% về lượng và tăng 14,6% về kim ngạch. Giá tăng 12,4%, đạt 33 USD/tấn.

Trong 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu xi măng, clinker sang đa số các thị trường đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài thị trường Trung Quốc tăng đột biến như trên, còn rất nhiều thị trường đạt mức tăng mạnh như: Malaysia tăng 83% về lượng và tăng 101% về kim ngạch, đạt 636.966 tấn, tương đương 22,08 triệu USD; Pê Ru tăng 97,9% về lượng và tăng 89,9% về kim ngạch, đạt 863.925 tấn, tương đương 39,02 triệu USD; Đài Loan tăng 57,5% về lượng và 79,3% về kim ngạch, đạt 1,23 triệu tấn, tương đương 41,84 triệu USD. Kenya tăng 48,2% về lượng và tăng 66,5% về kim ngạch, đạt 141.864 tấn, tương đương 4,54 triệu USD.

Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Australia, Sri Lanka và Mozambique  sụt giảm rất mạnh, với mức giảm tương ứng 67,5%, 66,1% và 60,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Xuất khẩu xi măng, clinker 9 tháng đầu năm 2018

Thị trường

9T/2018

+/- so với cùng kỳ (%) *

Lượng (tấn)

Trị giá (USD)

Lượng

Trị giá

Tổng cộng

23.388.193

890.798.836

71,35

84,81

Trung Quốc

6.559.591

235.425.351

7.639,02

8.909,03

Philippines

4.752.279

218.354.623

38,49

42,48

Bangladesh

5.641.545

186.213.198

1,98

14,63

Đài Loan (TQ)

1.226.397

41.839.721

57,5

79,28

Pê Ru

863.925

39.020.573

97,91

89,86

Malaysia

636.966

22.079.677

83,1

101,06

Campuchia

230.206

11.887.780

32,48

30,37

Chile

211.705

7.058.910

 

 

Lào

102.781

6.929.250

-20,69

-19,27

Mozambique

156.120

5.136.461

-64,73

-60,61

Kenya

141.864

4.542.966

48,16

66,48

Sri Lanka

128.059

4.230.609

-69,79

-66,1

Australia

68.060

3.576.092

-79,03

-67,5

Saudi Arabia

51.212

2.208.507

 

 

(*Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)

 

Nguồn: Vinanet