Theo Tổng cục Hải quan, tháng 6/2019 xuất khẩu hạt điều đạt 39,2 nghìn tấn, trị giá 275,61 triệu USD, giảm 4,6% về lượng và giảm 8,6% về trị giá so với tháng 5/2019, tăng 21,4% về lượng nhưng giảm 6% về trị giá so với tháng 6/2018. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu hạt điều đạt 195,7 nghìn tấn, trị giá 1,489 tỷ USD, tăng 12,2% về lượng, nhưng giảm 12,1% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2018. Giá xuất khẩu bình quân đạt mức 7.613 USD/tấn, giảm 21,5% so với 6 tháng đầu năm 2018.
Tuy đứng thứ 3 về sản lượng điều thô, nhưng Việt Nam đang dẫn đầu thế giới về xuất khẩu điều nhân trong 10 năm liên tiếp.
Hạt điều của Việt Nam được xuất khẩu tới 27 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Mỹ, Trung Quốc, Hà Lan, Anh là những thị trường chủ lực. Lượng điều xuất khẩu từ các quốc gia này chiếm 64,6% tỷ trọng và chiếm 64,3% tổng lượng điều xuất khẩu, trong đó xuất sang Mỹ nhiều nhất 63,7 nghìn tấn đạt 480,68 triệu USD, giảm 4,06% về lượng và giảm 25,69% về trị giá so với 6 tháng năm 2018. Giá xuất bình quân 7543,8 USD/tấn, giảm 22,54%. Riêng tháng 5/2019, cũng đã xuất sang Mỹ giảm 2,76% về lượng và 7,69% trị giá, giá xuất bình quân cũng giảm 5,07% so với tháng 5/2019, tương ứng với 13,2 nghìn tấn, trị giá 89,7 triệu USD, giá bình quân 6783 USD/tấn.
Đứng thứ hai sau thị trường Mỹ là Trung Quốc lục địa với lượng xuất 28,2 nghìn tấn, trị giá 221,4 triệu USD, tăng 52,65% về lượng và tăng 24,4% trị giá so với cùng kỳ, mặc dù giá xuất bình quân giảm 18,51% chỉ với 7843,82 USD/tấn.
Kế đến là các thị trường Hà Lan, Đức, Anh đạt lần lượt 18,05 nghìn tấn; 8 nghìn tấn và 7,84 nghìn tấn, trị giá tương ứng 142,2 triệu USD; 63,64 triệu USD và 55,75 triệu USD.
Nhìn chung, nửa đầu năm 2019 xuất khẩu điều sang các thị trường lượng tăng nhưng kim ngạch hầu hết suy giảm. Theo đó, xuất khẩu sang thị trường Pakistan và Hy Lạp đều có lượng tăng vượt bậc gấp hơn 2 lần, tăng lần lượt 107,14% và 105,04% mặc dù giá xuất bình quân giảm 10,05% và 25,81% nhưng kim ngạch đều tăng 86,32% và 52,11% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, xuất khẩu sang thị trường Bỉ cũng tăng mạnh, tăng 88,44% về lượng và trị giá 59,08% đạt 2,42 nghìn tấn, trị giá 20,8 triệu USD, giá xuất bình quân giảm 15,58% với 8565,68 USD/tấn.
Ở chiều ngược lại, lượng điều xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ, Nam Phi và Nauy đều sụt giảm lần lượt 36,17%; 33,85% và 30,05%.
Đáng chú ý, cơ cấu thị trường xuất khẩu điều nửa đầu năm nay so với năm ngoái có thêm các thị trường Saudi Arabia 1,38 nghìn tấn; Ai Cập 1,18 nghìn tấn và Co Oét 100 tấn.
Đối với thị trường Trung Quốc, với vị trí và khoảng cách địa lý không xa với Việt Nam việc vận chuyển hàng hóa có nhiều thuân lợi, theo Chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam (Vincas) – Phạm Văn Công, Chính phủ Trung Quốc đang triển khai thực hiện thống nhất các quy định về xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hải quan Trung Quốc cho biết, đây không phải là thay đổi hoặc điều chỉnh về chính sách mà là nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện nghiêm các quy định hiện hành của Trung Quốc; khắc phục việc chính quyền một số địa phương phía Trung Quốc trước đây cho phép áp dụng linh hoạt chính sách biên mậu không đúng quy định.
Theo nhận định của Chủ tịch Vinacas, các cửa khẩu của tỉnh Lạng Sơn sẽ có nhiều lợi thế để các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là ở các tỉnh phía Nam) xuất hàng vào Trung Quốc do đường ngắn hơn, dễ đi hơn. Trước đó, vào tháng 4/2019, Chủ tịch Vinacas đã ký với Chủ tịch tỉnh Lạng Sơn Bản ghi nhớ về các nội dung hợp tác. Theo đó, hai bên đã thống nhất các nội dung hợp tác cụ thể nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu hạt điều qua các cửa khẩu của Lạng Sơn, như: Xem xét giảm bớt các chi phí làm thủ tục xuất khẩu; hỗ trợ các doanh nghiệp làm thủ tục xuất khẩu nhanh; khi có trường hợp cần làm gấp để giữ đúng cam kết với khách hàng sẽ ưu tiên giải quyết trước… Những hoạt động này là giải pháp quan trọng để tháo gỡ kịp thời một số vướng mắc cho doanh nghiệp ngành điều khi xuất hàng qua Trung Quốc.
Thị trường xuất khẩu hạt điều 6 tháng năm 2019

Thị trường

 

6T/2019

+/- so với cùng kỳ 2018 (%)*

Lượng (Tấn)

Trị giá (USD)

Lượng

Trị giá

Mỹ

63.719

480.683.542

-4,06

-25,69

Trung Quốc

28.235

221.470.272

52,65

24,4

Hà Lan

18.051

142.260.088

-14,51

-34,85

Đức

8.009

63.641.622

51,94

19,13

Anh

7.846

55.753.938

10,1

-16,25

Australia

7.146

54.201.630

36,22

9,5

Canada

5.505

45.025.093

5,66

-17,91

Thái Lan

4.911

36.090.205

14,26

-11,23

Italy

4.140

24.413.851

9,26

-17,6

Nga

3.845

28.916.951

20,34

-5,41

Israel

3.405

27.248.800

12,34

-11,07

Tây Ban Nha

2.797

21.519.121

54,7

19,03

Pháp

2.475

22.460.679

13,22

-5,61

Bỉ

2.429

20.806.041

88,44

59,08

Nhật Bản

1.722

13.181.469

0,53

-20,34

Ấn Độ

1.673

9.114.928

-36,17

-52,77

New Zealand

1.385

10.039.408

12,15

-12,13

Hồng Kông (TQ)

1.083

11.118.907

36,57

21,86

Đài Loan (TQ)

1.014

8.347.474

-5,76

-24,18

UAE

993

6.485.364

-35,89

-47,55

Philippines

777

5.029.335

-8,16

-35,38

Iraq

655

5.455.398

 

 

Hy Lạp

570

4.262.289

105,04

52,11

Ukraine

558

4.250.761

78,85

46,99

Na Uy

433

3.336.445

-30,05

-46,82

Nam Phi

381

2.610.160

-33,85

-54,8

Singapore

284

2.120.537

-21,76

-39,21

Pakistan

29

244.735

107,14

86,32

(*Tính toán số liệu từ TCHQ)
 Nguồn: VITIC tổng hợp

Nguồn: Vinanet