Riêng tháng 4/2019 xuất khẩu 35.679 tấn, trị giá 271,19 triệu USD, tăng 11,6% về lượng và tăng 8,4% về kim ngạch so với tháng liền kề trước đó và cũng tăng 10,9% về lượng nhưng giảm 12,6% về kim ngạch so với cùng tháng năm trước. Giá hạt điều xuất khẩu trong tháng 4/2019 giảm nhẹ 2,9% so với tháng 3/2019, đạt 7.600,8 USD/tấn và cũng giảm 21,2% so với cùng tháng năm 2018.
Top 3 thị trường tiêu thụ nhiều nhất hạt điều cuả Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc, Hà Lan; trong đó xuất khẩu sang Mỹ đạt 36.996 tấn, tương đương 294,63 triệu USD, giảm 4,1% về lượng và giảm 24,1% về kim ngạch so với cùng kỳ, chiếm trên 32% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước. Giá xuất khẩu sang Mỹ giảm 20,9%, đạt trung bình 7.963,7 USD/tấn.
Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 14.612 tấn, tương đương 116,88 triệu USD chiếm gần 13% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, tăng 16,4% về lượng nhưng giảm 4,9% về kim ngạch, giá xuất khẩu giảm 18,3%, đạt 7.998,7 USD/tấn.
Hạt điều xuất khẩu sang thị trường Hà Lan giảm 21,1% về lượng và giảm 38,7% về kim ngạch so với cùng kỳ, đạt 10.432 tấn, tương đương 87,39 triệu USD, chiếm trên 9% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước.
Nhìn chung, xuất khẩu hạt điều trong 4 tháng đầu năm nay sang đa số các thị trường bị sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó, giảm mạnh ở các thị trường sau: U.A.E giảm 434% về lượng và 52,1% về kim ngạch, đạt 626 tấn, tương đương 4,35 triệu USD; Na Uy giảm 36,3% về lượng và 51,8% về kim ngạch, đạt 299 tấn, tương đương 2,33 triệu USD; Nam Phi giảm 25,6% về lượng và 50,9% về kim ngạch, đạt 238 tấn, tương đương 1,7 triệu USD.
Tuy nhiên, một số thị trường tuy lượng xuất khẩu không cao nhưng so với cùng kỳ thì tăng rất mạnh như: Bỉ tăng 112,7% về lượng và tăng 82,2% về kim ngạch, đạt 1,412 tấn, tương đương 12,88 triệu USD; Ukraine tăng 68,4% về lượng và tăng 36,6% về kim ngạch, đạt 330 tấn, tương đương 2,59 triệu USD; Tây Ban Nha tăng 74% về lượng và tăng 35,3% về kim ngạch, đạt 1.998 tấn, tương đương 15,8 triệu USD.
Nguyên nhân xuất khẩu giảm
Nguyên nhân xuất khẩu hạt điều liên tục giảm trong thời gian qua là do thiếu nguyên liệu, rủi ro từ phía đối tác. Nguồn điều thô trong nước quá thiếu, cung ứng chưa tới 30% năng lực chế biến, nên Việt Nam buộc phải nhập khẩu hạt điều thô.
Năm 2018 tuy vẫn ở ngôi số 1, song xuất khẩu nhân điều của Việt Nam đã giảm 3,9% so với năm 2017. Bốn tháng đầu năm 2019 xuất khẩu nhân điều giảm 14,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đáng ngại là kim ngạch giảm song lượng vẫn tăng đều. Sự sụt giảm nói trên diễn ra khi nhu cầu về nhân điều của thị trường thế giới ổn định, tăng nhẹ.
Nguyên nhân trước hết là bất cập bắt nguồn từ sự khập khiễng giữa khả năng trồng trọt với năng lực chế biến của ngành điều trong chặng đường vừa qua. Thất thường trong trồng trọt là căn bệnh mãn tính của nông nghiệp nước nhà nói chung và cây điều nói riêng. Có quy hoạch nhưng sẵn sàng phá vỡ quy hoạch, chạy theo tâm lý đám đông, cuốn theo cơn lốc thương trường.
Cây điều phơi phới đơm hoa, kết trái là đấy nhưng rồi bị chặt hạ không thương tiếc bởi bàn tay của những người từng chăm bẵm nó - cùng cảnh ngộ như cây tiêu, cà phê... Hệ lụy là vườn điều bị thu hẹp, phần lớn trồng ở vùng sâu, vùng xa, không đủ sức đầu tư, thâm canh, tưới tắm, phòng chống sâu bệnh, bón phân, liên kết sản xuất, chế biến sâu.
Diện tích trồng điều cả nước khoảng 300 nghìn ha, tập trung ở 5 tỉnh Bình Phước, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Thuận. Sản lượng năm 2018 đạt 260,3 nghìn tấn hạt điều thô, tăng 20% so với 2017 song vẫn không đủ nguyên liệu chế biến. Hiện nay có chừng 1.000 cơ sở chế biến, tổng công suất 1 triệu tấn nguyên liệu/ năm, cùng gần 400 doanh nghiệp xuất khẩu hạt điều thô.
Điều này đã lãng phí đầu tư, kém hiệu quả trong khai thác, chế biến, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp khi thu mua hạt điều thô nội địa và nhập khẩu hạt điều thô cũng như khi xuất khẩu nhân điều. Doanh nghiệp đuối sức phải thu hẹp sản xuất hoặc phá sản.
Do nguồn điều thô trong nước quá thiếu, cung ứng chưa tới 30% năng lực chế biến, nên buộc phải nhập khẩu hạt điều thô. Muốn tăng xuất khẩu nhân điều càng phải nhập khẩu nhiều hạt điều thô thành thử cứ phân vân về hiệu quả xuất khẩu mặt hàng này.
Năm 2018 nhập khẩu 1.198 nghìn tấn hạt điều thô, tốn gần 2,3 tỷ USD (69,3% kim ngạch xuất khẩu nhân điều). Ba con số tương tự của 4 tháng đầu năm 2019 là: 272 nghìn tấn - 462 triệu USD - 52,2%. Hạt điều thô phần lớn nhập khẩu từ châu Phi, trong đó riêng Bờ Biển Ngà chiếm 35% tổng lượng hạt điều thô nhập về Việt Nam.
Đáng buồn là với đối tác châu Phi hay gặp nhiều rủi ro, chuốc lắm cách chịu trận. Vấn nạn doanh nghiệp Việt Nam đặt cọc mua nguyên liệu nhưng hàng nhận được phẩm cấp không như hợp đồng, thậm chí xù luôn mất trắng tiền cọc, không còn là chuyện hy hữu. Sắp tới nhiều nước sẽ giữ lại hạt điều thô để trong nhà chế biến. Nếu Bờ Biển Ngà thực hiện tuyên bố đến năm 2020 sẽ để lại toàn bộ hạt điều thô để chế biến trong nước thì không đầy một năm nữa ta sẽ hụt hẫng nguyên liệu.
Thêm vào đó, lênh đênh biển trời xa cách, cước phí cao, nhiều nước lại tăng thuế nhập khẩu hợp sức đẩy giá nhập khẩu cao. Song nguy hiểm hơn do hạt điều thô nhập khẩu từ nhiều nguồn, chất lượng khó kiểm soát, không đồng đều kích cỡ, phẩm cấp.
Đáng ngại hơn là đang phải đối mặt với nạn mọt cứng (mọt Trogoderma grannadium - TG) theo chân hạt điều thô "nhập cảnh hợp pháp" vào ta. Trừ diệt loại mọt này khó vì chúng có thể sống trong môi trường mà không có thức ăn trong thời gian dài, thích ứng nơi khô, thực phẩm có độ ẩm thấp, khả năng kháng nhiều loại thuốc trừ sâu. Các nước đều đưa loại sinh vật cứng cổ này vào diện tầm soát nghiêm ngặt.
Từ mấy năm nay đã phát hiện trong một số lô hàng hạt điều thô nhập khẩu lẩn quất loại mọt ngoại lai này, song do chưa thấy tác hại nên chưa ra tay ngăn chặn. Nay tình hình đã trở nên cấp bách, phải đồng loạt kiểm tra ít nhiều sẽ làm chậm trễ đưa hạt điều thô về sản xuất. Nhưng nếu không tận khử e rằng chúng sẽ lây lan sang các lô nguyên liệu khác, ảnh hưởng đến chất lượng thành phẩm, khó qua mắt tinh tường của cơ quan kiểm dịch của nước nhập khẩu nhân điều.
Ba giải pháp lớn
Một là, phải sớm tìm lời giải về nguồn cung nguyên liệu an toàn, ổn định bằng kết hợp hài hòa hai mặt. Một mặt, phát huy thành tựu nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đổi mới trồng, chăm sóc cây điều theo quy trình tiên tiến, chống dịch bệnh, năng sất cao, cho hạt điều thô chất lượng, đồng đều. Mặt khác, đẩy mạnh hợp tác thực hiện Chương trình trồng điều quy mô lớn ở Campuchia.
Theo đó, phía Việt Nam sẽ hỗ trợ Campuchia tuyển chọn giống và đưa giống sang, chuyển giao quy trình trồng trọt và bao tiêu đầu ra. Hiện Campuchia chiếm 7% thị phần nhập khẩu hạt điều thô của Việt Nam, nếu đề án trồng điều của bạn diễn ra đúng kịch bản hợp tác với ta thì sẽ giảm áp lực về nhập khẩu điều nguyên liệu cả về lượng, chất và giá thành.
Hai là, đổi mới kỹ thuật chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm. Đa dạng hóa các sản phẩm từ nhân điều. Tận thu phụ phẩm từ chế biến. Quy hoạch các doanh nghiệp điều, giảm đầu mối nhưng không để xáo trộn, không kèn cựa nhau. Với những cơ sở làm ăn có hiệu quả nên khuyến khích, tạo điều kiện để họ đầu tư, đổi mới sản xuất thành con chim đầu đàn trong ngành điều.
Ba là tận dụng ưu đãi về thuế quan của các đối tác đã ký Hiệp định thương mại tư do (FTA); đổi mới và nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại thị trường mua nhân điều, cũng như đối tác bán hạt điều thô ổn định, hiệu quả, hạn chế rủi ro.

Xuất khẩu hạt điều 4 tháng đầu năm 2019

ĐVT: USD

Thị trường

4T/2019

+/- so với cùng kỳ (%)*

Lượng (tấn)

Trị giá (USD)

Lượng

Trị giá

Tổng cộng

115.101

910.492.470

8,12

-14,57

Mỹ

36.996

294.625.445

-4,08

-24,12

Trung Quốc đại lục

14.612

116.876.582

16,36

-4,9

Hà Lan

10.432

87.385.047

-21,09

-38,68

Đức

4.880

39.784.591

64,86

29,46

Australia

4.577

36.010.462

61,28

31,98

Anh

4.897

35.949.333

22,12

-6,88

Canada

3.019

26.016.253

-13,27

-31,83

Thái Lan

3.208

23.884.582

37,56

5,39

Nga

2.705

21.150.738

35,66

7,79

Israel

2.094

17.080.097

21,46

-4,24

Italy

2.762

16.904.779

11,55

-21,61

Tây Ban Nha

1.998

15.795.646

74,04

35,26

Pháp

1.626

15.303.707

8,54

-8,08

Bỉ

1.412

12.883.156

112,65

82,24

Nhật Bản

1.064

8.337.110

-5,25

-22,86

Hồng Kông (TQ)

714

7.592.320

42,51

30,56

Ấn Độ

1.364

7.375.607

-12,06

-31,64

Saudi Arabia

946

6.980.888

 

 

Ai Cập

824

6.792.093

 

 

New Zealand

848

6.259.194

15,06

-12,34

Đài Loan (TQ)

722

6.057.048

12,64

-8,68

U.A.E

626

4.348.828

-43,4

-52,14

Iraq

368

3.181.206

 

 

Philippines

387

2.897.239

-24,56

-41,1

Ukraine

330

2.588.619

68,37

36,58

Hy Lạp

317

2.410.173

72,28

29

Na Uy

299

2.326.825

-36,25

-51,83

Nam Phi

238

1.702.018

-25,63

-50,88

Singapore

157

1.296.509

-21,11

-36,76

Kuwait

85

758.477

 

 

Pakistan

29

244.735

 

 

(*Tính toán từ số liệu của TCHQ)  

Nguồn: Vinanet