XK rau quả tháng 7/2016 ước đạt 229 triệu USD. Lũy kế 7 tháng, XK rau quả ước đạt 1,385 tỷ USD, tăng 40,5% so với cùng kỳ năm 2015 (1,022 triệu USD). Kim ngạch XK rau quả 7 tháng qua tăng mạnh, do các thị trường chủ lực đều đạt mức tăng trưởng cao như: Trung Quốc tăng 233% so với cùng kỳ, đạt 940,9 triệu USD, chiếm 69,5% trong tổng kim ngạch XK rau quả của cả nước; thị trường Hàn Quốc tăng 26,75%, đạt 53,1 triệu USD, chiếm 4%; thị trường Hoa Kỳ tăng 60% đạt 49,5 triệu USD, chiếm 3,7%.

XU rau quả tăng trưởng là do nhiều thị trường có yêu cầu cao về tiêu chuẩn sản phẩm đã, đang và sẽ tiếp tục mở rộng cửa cho trái cây Việt Nam. Cụ thể, thanh long, chôm chôm, nhãn, vải thiều đã được phép XK sang thị trường Mỹ (5 tháng đầu năm XK khoảng 2.000 tấn, tăng 200% so với cùng kỳ 2015). Ngày 4/8/2016, Bộ Nông nghiệp mỹ đăng công báo Liên bang đề xuất ý iến công chúng, đóng góp và bổ sung, sửa đổi các quy định để cho phép xoài tươi Việt Nam được nhập khẩu vào Hoa Kỳ, động thái này ví như tấm giấy thông hành, là bước đệm quan trọng để xoài tươi thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này.

Trái vải của Việt Nam cũng đã thâm nhập vào thị trường Úc, dự kiến cuối năm 2016, Úc sẽ hoàn tất thủ tục cho phép NK thêm thanh long. Bên cạnh đó, nhiều loại trái cây của Việt  Nam cũng đã thâm nhập được vào Đài Loan, Hàn Quốc, New Zealand…

Các doanh nghiệp ở ĐBSCL cho biết, nhu cầu rau quả nhiệt đới trên thế giới lúc nào cũng lớn và là cơ hội để rau quả Việt Nam tiếp cận được nhiều thị trường mới. Trong 10 năm qua, các DN đã mở thêm 24 thị trường, có được kết quả trên là nhờ nông dân tích cực mở rộng nhiều diện tích rau quả đạt chuẩn VietGAP.

Cục trưởng Cục BVTV khẳng định, kiểm soát tồn dư thuốc BVTV sẽ giúp giữ thị trường trong nước và XK. Thời gian qua, đã có rất nhiều sản phẩm rau quả sau khi kiểm soát tốt dư lượng thuốc BVTV đã tìm được thị trường XK có giá trị gia tăng cao, ổn định. Như voài  Cát Chu, nhờ được kiểm soát chặt chẽ từ khâu trồng đến thu hoạch, đã được thị trường Nhật Bản đón nhận khá tốt và có ngay các đơn hàng tiếp theo.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam