Theo Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 5-2013, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 102,51 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu đạt 50,65 tỷ USD, tăng 16,7% và nhập khẩu là gần 51,86 tỷ USD, tăng 16,8%.

Những nhóm hàng xuất khẩu chính

Điện thoại các loại và linh kiện: Tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng đạt 8,11 tỷ USD, gấp hơn 2 lần so với thực hiện của cùng kỳ năm 2012.

Hàng dệt may: Trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng năm 2013 là 6,43 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước (tương ứng tăng 955 triệu USD). Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 3,87 tỷ USD, tăng 16,4%; của doanh nghiệp trong nước đạt 2,56 tỷ USD, tăng 19,1%.

Trong 5 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt gần 3,25 tỷ USD, tăng 15,9%; sang EU đạt 908 triệu USD, tăng 7,1%; sang Nhật Bản đạt 868 triệu USD, tăng 19,9% và sang Hàn Quốc 479 triệu USD, tăng 41,6% so với cùng kỳ năm 2012.

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Trung Quốc vẫn là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 5 tháng qua với 933 triệu USD, tăng 27,8%; tiếp theo là EU 887 triệu USD, tăng 96,1%; Hoa Kỳ 479 triệu USD, tăng 38,7% và Malaysia 415 triệu USD, tăng 93,9% so với cùng kỳ năm trước.

Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này 5 tháng đầu năm 2013 đạt 3,91 tỷ USD, tăng 41,1% so với cùng kỳ năm 2012.

Dầu thô: Tính đến hết tháng 5-2013, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt 3,48 triệu tấn, tăng 13,9% và kim ngạch đạt 3,02 tỷ USD, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước.

Giày dép các loại: Tính đến hết tháng 5-2013, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 3,21 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, thị trường EU và Hoa Kỳ là 2 thị trường chính nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng lần lượt là 1,09 tỷ USD (tăng 8,2%) và 1,04 tỷ USD (tăng 20,4%). Tính chung, trị giá giày dép xuất khẩu sang 2 thị trường chính này chiếm tới 66,3% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. 

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: Trong tháng 5-2013, xuất khẩu đạt 497 triệu USD, tăng 9,9%, nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng năm 2013 lên 2,18 tỷ USD, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2012.

Hàng thủy sản: Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng năm 2013 đạt 2,3 tỷ USD, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến hết tháng 5, hàng thủy sản của Việt Nam bị suy giảm ở hầu hết các thị trường chính trừ thị trường dẫn đầu Hoa Kỳ. Cụ thể, xuất sang  EU 412 triệu USD, giảm 9,7%; Nhật Bản 389 triệu USD, giảm 4,1% và Hàn Quốc 157 triệu USD, giảm 19,6%;… Trong khi đó, đối tác dẫn đầu nhập khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam là Hoa Kỳ vẫn đạt tăng trưởng dương, với 472 triệu USD, tăng 5,7%.

Gỗ và sản phẩm gỗ: Xuất khẩu trong tháng 5 đạt 450 triệu USD, tăng 8,9% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 tháng năm 2013 lên gần 2,03 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2012.

Tính đến hết tháng 5-2013, nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất sang Hoa Kỳ đạt hơn 710 triệu USD, tăng 6,2%; sang Trung Quốc 330 triệu USD, tăng 11,1%; sang Nhật Bản 308 triệu USD, tăng18,4%; sang thị trường EU 277 triệu USD, giảm 1,3%;…  so với cùng kỳ năm 2012.

Cao su: Tính trong 5 tháng năm 2013, lượng xuất khẩu cao su của cả nước là 304 nghìn tấn, giảm 11,3%, kim ngạch đạt 789 triệu USD, giảm 24%.

Trung Quốc vẫn là đối tác chính nhập khẩu cao su của Việt Nam với 148 nghìn tấn, giảm 22% so với 5 tháng năm 2012 và chiếm 48,6% lượng cao su xuất khẩu của cả nước.

Gạo: Tính đến hết tháng 5-2013, lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt hơn 2,9 triệu tấn, trị giá đạt gần 1,3 tỷ USD, giảm 1,2% về lượng và giảm 5,6% về trị giá so với 5 tháng năm 2012.

Trong 5 tháng đầu năm nay, gạo của Việt Nam xuất sang các thị trường chính Trung Quốc, Singapore, Cu Ba, Hồng Kông tăng cao. Lượng gạo xuất sang 4 thị trường này đạt 1,57 triệu tấn, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, xuất sang các thị trường chính khác thuộc khu vực châu Á lại giảm mạnh như: Indonesia giảm 73%, Đài Loan giảm 46,6%, Malaysia giảm 48,5% và Philippines giảm 13,8%.

Đặc biệt trong 5 tháng năm 2013, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang một số thị trường thuộc khu vực châu Phi tăng rất mạnh về lượng so với cùng kỳ năm trước như Ăngôla đạt 83,6 nghìn tấn, tăng 186%; Cameroon đạt 68,8 nghìn tấn, tăng 122%; Mozambique đạt 34,4 nghìn tấn, tăng 31,4%; Tôgô đạt 15,3 nghìn tấn, tăng gấp gần 7 lần;...

Hạt điều: Tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng năm 2013 đạt 88,9 nghìn tấn, tăng 14,6% và trị giá đạt 555 triệu USD, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn đầu về tiêu thụ hạt điều của Việt Nam với 26,2 nghìn tấn, tăng 20,4% và chiếm gần 1/3 lượng điều xuất khẩu. Tiếp theo là thị trường Trung Quốc với 15,1 nghìn tấn, tăng 1,6%; Hà Lan với 8,5 nghìn tấn, giảm 3,9%; Ấn Độ với 4,5 nghìn tấn, gấp hơn 3 lần; Australia với 4,4 nghìn tấn, giảm 5,9%;...

Than đá: Tính đến hết tháng 5-2013, lượng than đá xuất khẩu đạt 6,3 triệu tấn, tăng 2,8%, trị giá đạt 452 triệu USD, giảm 15% so với cùng kỳ năm 2012.

Trung Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhất nhập khẩu than đá của Việt Nam với hơn 5 triệu tấn, tăng 4% và chiếm tới 80% tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước.

Những nhóm hàng nhập khẩu chính

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Tính hết 5 tháng năm 2013, nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước là 7,15 tỷ USD, tăng 55,2%; trong đó nhập khẩu của khu vực các doanh nghiệp FDI là 6,59 tỷ USD, tăng 63,5% và nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước là gần 557 triệu USD, giảm 3,3% so với 5 tháng năm 2012.

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: Trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng 5 là gần 1,66 tỷ USD, tăng 6,1% so với tháng trước, nâng trị giá nhập khẩu trong 5 tháng năm 2013 lên 6,96 tỷ USD, tăng 7,5% so với 5 tháng năm 2012; trong đó khối các doanh nghiệp FDI nhập khẩu 4,13 tỷ USD, tăng 25% và khối các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu 2,83 tỷ USD, giảm 10,8%.

Điện thoại các loại và linh kiện: Tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng năm 2013 lên gần 3,12 tỷ USD, tăng 95,6% so với 5 tháng năm 2012.

Trong 5 tháng năm 2013, Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng này chủ yếu là nhập linh kiện để sản xuất xuất khẩu với 2,59 tỷ USD, trong đó có 2,52 tỷ USD là nhập vào khu chế xuất; nhập theo loại hình gia công là hơn 28 triệu USD; nhập theo loại hình đầu tư là gần 30 triệu USD và nhập kinh doanh với 465 triệu USD.

Xăng dầu các loại: Tính đến hết 5 tháng năm 2013, tổng lượng xăng dầu nhập khẩu của cả nước là gần 3,15 triệu tấn, giảm 18,2%, trị giá là 2,97 tỷ USD, giảm 23,2% so với 5 tháng năm 2012.

Nguyên vật liệu ngành dệt may, da, giày: Tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng năm 2013 đạt 5,8 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó, trị giá vải nhập khẩu là: 3,25 tỷ USD, tăng16,5%; nguyên phụ liệu: 1,46 tỷ USD, tăng 16,7%; xơ, sợi là 603 triệu USD, tăng 2,9% và bông: 491 triệu USD, tăng 34%.

Sắt thép các loại: Tổng lượng nhập khẩu sắt thép của cả nước trong 5 tháng năm 2013 lên 4,05triệu tấn, trị giá là 2,93 tỷ USD, tăng 28,4% về lượng và tăng 14,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2012.

Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng 5-2013, cả nước nhập khẩu gần 300 triệu USD nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu, tăng 49,9% so với tháng trước. Tính đến hết 5 tháng năm 2013, cả nước nhập khẩu 1,21 tỷ USD nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu, tăng 48,2% so với 5 tháng năm 2012.

Phế liệu sắt thép: Tính đến hết 5 tháng năm 2013, cả nước nhập khẩu gần 1,27 triệu tấn với trị giá 509 triệu USD, tăng 6,7% về lượng và giảm 5,3% về trị giá so với 5 tháng năm 2012.

Kim loại thường khác: Tính đến hết tháng 5-2013, tổng lượng nhập khẩu kim loại thường khác của Việt Nam là 315 nghìn tấn, tăng 20,9%, trị giá là 1,16 tỷ USD, tăng 14,4%.

Chất dẻo nguyên liệu: Tính đến hết tháng 5-2013, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của Việt Nam là gần 1,25 triệu tấn, tăng 16,5%, kim ngạch nhập khẩu là gần 2,24 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước.

Hóa chất: Tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong 5 tháng năm 2013 lên 1,17 tỷ USD, giảm 3,1% so với 5 tháng năm 2012.

Phân bón các loại: Tính đến hết 5 tháng năm 2013, tổng lượng phân bón các loại nhập khẩu vào Việt Nam lên đến 1,52 triệu tấn, trị giá là 622 triệu USD, tăng 26,8% về lượng và tăng 17,5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Ô tô nguyên chiếc: lượng nhập khẩu ô tô trong tháng 5 đạt 3,4 nghìn chiếc, tăng 11,2% so với tháng trước. Tính đến hết 5 tháng năm 2013, tổng lượng ô tô nguyên chiếc nhập về là 13,48 nghìn chiếc, tăng 12,3%, trị giá là 253 triệu USD, tăng 6% so với  cùng kỳ năm 2012.

Trong 5 tháng qua, nhập khẩu xe ô tô nguyên chiếc nhiều nhất vẫn là ô tô 9 chỗ ngồi trở xuống với hơn 7 nghìn chiếc, giảm 2,9%; ô tô tải: 5,34 nghìn chiếc, tăng 39,4%; ô tô trên 9 chỗ ngồi: 192 chiếc (cùng kỳ năm trước chỉ nhập 42 chiếc); ô tô loại khác: 881 chiếc, tăng 3,4% so với 5 tháng/2012.

Hàn Quốc tiếp tục là thị trường chính xuất khẩu ô tô nguyên chiếc sang Việt Nam với 6,75 nghìn chiếc, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2012 và chiếm hơn một nửa tổng số lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước; tiếp theo là Thái Lan 2,68 nghìn chiếc, tăng 46,5%; Trung Quốc 1,6 nghìn chiếc, tăng 0,9%; Nhật Bản 632 chiếc, tăng 27,4%…

Nguồn: Hải quan Việt Nam