Tiềm năng dồi dào
Theo con số gần đây nhất được Diễn đàn Halal Thế giới công bố, giá trị trao đổi thương mại toàn cầu tính riêng cho nhóm hàng thực phẩm Halal đạt khoảng 661 tỷ USD và nếu tính cả nhóm sản phẩm phi thực phẩm và dịch vụ Halal khác thì con số này sẽ đạt từ 1,2 đến 2 nghìn tỷ USD một năm.
Dự báo tới năm 2025, thực phẩm có dấu chứng nhận Halal (thực phẩm Halal) sẽ chiếm 20% tổng giá trị thực phẩm tiêu thụ trên toàn thế giới. Do vậy, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước Hồi giáo là một hướng đi có tiềm năng của các quốc gia có thế mạnh trong sản xuất và chế biến lương thực, thực phẩm, trong đó có Việt Nam.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Ramlan Osman, Giám đốc kinh doanh Công ty Vietnam Halal Center cho biết, các thị trường lớn tiêu thụ thực phẩm Halal như Malaysia, Indonexia, Brunay và Trung Đông đều rất đang quan tâm đến các sản phẩm của Việt Nam. Bởi Việt Nam có lợi thế về nguồn nông nghiệp như cacao, café, gạo, lúa mạch, các sản phẩm từ biển, thủy hải sản, gia vị, đậu hạt, rau củ quả... hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu thực phẩm của người Hồi giáo.
Theo đánh giá của công ty, nguồn cung ứng của Việt Nam về các sản phẩm tiềm năng cho Halal mới chỉ đạt 10,5 tỷ USD. Hiện tại, mỗi năm nước ta có khoảng 50 công ty được cấp chứng nhận Halal với các sản phẩm chủ yếu là hải sản, đồ uống, thực phẩm đóng hộp, bánh kẹo, đồ ăn chay và dược phẩm. Trong khi đó, nhu cầu của các quốc gia trong Tập đoàn Hợp tác Hồi giáo (OIC) cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam là 34,1 tỷ USD. Như vậy phần thị trường 23,4 tỷ USD đang hoàn toàn bị các doanh nghiệp bỏ rơi.
“Vừa qua, khảo sát của Công ty Vietnam Halal Center tại các công ty sản xuất lúa gạo lương thực thực phẩm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có không ít doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu lớn và chất lượng hoàn toàn có thể đạt được chứng nhận yêu cầu xuất khẩu của Halal. Vì thế, chúng tôi cảm thấy rất tiếc khi các doanh nghiệp Việt đang bỏ ngỏ thị trường thực phẩm cho người Hồi giáo” – ông Ramlan Osman chia sẻ.
Cần sự chủ động của doanh nghiệp
Ông Phạm Thiết Hòa – Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư TP Hồ Chí Minh (ITPC) cũng cho biết, với 1/4 dân số trên thế giới, 1/2 dân số ASEAN là người Hồi giáo, ngành công nghiệp Halal, tức ngành cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn cho người Hồi giáo, thực sự trở thành ngành công nghiệp quan trọng, còn nhiều tiềm năng không chỉ trong khu vực mà còn trên thế giới. Đây chính là cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam nhằm tận dụng triệt để cơ hội tăng xuất khẩu.
Tuy nhiên, rào cản lớn nhất khiến doanh nghiệp Việt Nam còn lúng túng là việc đáp ứng các sản phẩm, dịch vụ hợp chuẩn do vướng chứng nhận Halal - tiêu chuẩn Halal. Ông Ramlan Osman cho rằng thị trường dành cho người Hồi giáo không đòi hỏi sản phẩm đáp ứng nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật cao như Mỹ, Châu Âu. Các doanh nghiệp nào đã được cấp chứng chỉ HACCP hoặc ISO 22000:2005 sẽ dễ dàng hơn trong việc được cấp chứng chỉ Halal. Đặc biệt, chứng nhận Halal không đề cập các yếu tố về mặt kỹ thuật, tức là không yêu cầu về chất lượng, chỉ yêu cầu quá trình sản xuất, nguyên vật liệu phải đáp ứng các yêu cầu về Halal mà thôi. Như vậy, việc chứng thực Halal khác với việc chứng thực các tiêu chuẩn khác ở chỗ nó không mang nhiều ý nghĩa về mặt quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm mà nó mang ý nghĩa chủ yếu về mặt tôn giáo. Và người Hồi giáo thường mua sản phẩm nếu đáp ứng 2 yêu cầu bắt buộc là có dấu Halal và có ngôn ngữ thân thiện với ngôn ngữ của họ.
Trên thế giới hiện có khoảng 300 tổ chức cấp chứng nhận Halal nhưng chỉ có 122 tổ chức được công nhận là thành viên của Liên minh Halal Quốc tế IHIA. Tại Việt Nam cũng đã có Trung tâm kiểm tra, đánh giá cấp Chứng nhận Halal cho các sản phẩm xuất khẩu vào thế giới Hồi giáo được công nhận là thành viên của IHIA – Halal Việt Nam (HVN).
Theo ông Hòa để tiến tới sản xuất sản phẩm đạt tiêu chuẩn Halal theo nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp cần chủ động đáp ứng trước các tiêu chuẩn Halal để khi có đơn hàng, việc xin giấy chứng nhận sẽ nhanh chóng, dễ dàng hơn
Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam cần tiếp cận đúng đắn các quy định thương mại của các nước Hồi giáo nói chung và tránh nhầm lẫn về khái niệm Halal. Chẳng hạn như phần đông các doanh nghiệp đều nghĩ rằng 100% đồ chay chính là sản phẩm Halal, hay là sản phẩm không thịt mỡ, thịt heo thì có thể bán và sử dụng ở thị trường Hồi giáo. Đây là cách hiểu chưa chính xác, các doanh nghiệp nên tìm hiểu chi tiết hơn để tiếp cận đúng đắn các quy định thương mại của các nước Hồi giáo.
Ông Phạm Thiết Hòa, Giám đốc IPTC: Thị trường cho người Hồi giáo là một trong những thị trường rất lớn, được xem là một cụm thị trường phát triển nhanh nhất trên thế giới hiện nay và có ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có một chiến lược riêng cho từng thị trường đạo Hồi.
Nguồn: Congthuong.vn