Dù có hiệu lực vào cuối năm 2018 nhưng để chủ động cho việc xuất khẩu, các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cần phối hợp với nhà nhập khẩu để chuẩn bị nguồn dữ liệu, hồ sơ tuân thủ SIMP ngay từ bây giờ, để đáp ứng các yêu cầu giám sát của nhà nhập khẩu.
Trước đó, kể từ 1/1/2018, Mỹ triển khai Chương trình SIM đối với 13 loài thủy hải sản là các loài ưu tiên nhằm chống lại các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo, không theo quy định (IUU) và gian lận thương mại thủy sản. Khi đó, Chương trình chủ yếu áp dụng đối với các đối tượng thủy hải sản đánh bắt, tôm và bào ngư nằm ngoài đối tượng giám sát.
Tuy nhiên, hai mặt hàng trên đã chính thức được đưa vào SIMP theo quy định cuối cùng được Cục Quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA) công bố ngày 24/4/2018 vừa qua.
Chuyên gia Celeste Leroux thuộc NOAA cho biết theo Chương trình SIMP, nhà nhập khẩu thủy sản trong hồ sơ phải thường trú tại Mỹ và có giấy phép thương mại thủy sản quốc tế hiện hành. Ngoài ra, có hai loại thông tin truy xuất nguồn gốc bắt buộc phải có là: thông tin về thu hoạch và cập bờ phải được báo cáo bằng điện tử, tại thời điểm nhập khẩu thông qua Hệ thống dữ liệu thương mại quốc tế (ITDS) và hồ sơ chuỗi hành trình. Hồ sơ chuỗi hành trình là tài liệu truy xuất nguồn gốc sản phẩm từ lúc thu hoạch đến điểm nhập cảng Mỹ, phải được nhà nhập khẩu lưu giữ trong 2 năm và có thể được yêu cầu xuất trình khi kiểm tra.
Bà Celeste Leroux cho biết thêm, quy tắc thiết lập SIMP chỉ áp dụng cho hải sản từ nước ngoài nhập khẩu vào Mỹ. Để NOAA có thể hỗ trợ, DN nên gửi thông tin để NOAA hỗ trợ xem xét và tư vấn, nếu có bất kỳ thông tin nào bị thiếu trong chuỗi cung ứng mà phía nhà nhập khẩu Mỹ yêu cầu truy xuất. Đại diện NOAA cho rằng, do Việt Nam có nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ nên có thể làm việc cụ thể với NOAA. Tuy nhiên, các DN ít nhất phải có bằng chứng, chứng minh được rằng, nơi sản xuất đó đã được cấp phép sản xuất theo quy hoạch.
Đánh giá về khả năng đáp ứng quy định của SIM, các chuyên gia tin tưởng ở các doanh nghiệp Việt Nam, khi đã có khá nhiều kinh nghiệm thực hiện các chương trình truy xuất nguồn gốc và xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau. Các DN hoàn toàn có thể đáp ứng các quy định mới của Mỹ, vấn đề cần quan tâm là cách DN hệ thống hóa, chuẩn hóa và lưu giữ thông tin cần cung cấp cho nhà nhập khẩu.
Tuy nhiên, một số quy định của SIMP khá chi tiết, thủ tục còn rườm rà buộc DN phải chuẩn bị thêm một đội ngũ để chuẩn bị hồ sơ, tốn thêm chi phí nhân công. Bên cạnh đó, với thời hạn chỉ còn vài tháng để chuẩn bị gấp gáp, hàng hóa xuất đi dễ bị ách tắc trong giai đoạn đầu.
Hiện thị trường Mỹ nhập khẩu khoảng 600.000 tấn tôm mỗi năm, trong đó Việt Nam chiếm 55.000 - 60.000 tấn.
Nguồn: Thu Thủy/Báo Thế giới và Việt Nam