Với hơn 14.000 loại sản phẩm phân bón hiện có trên thị trường, người nông dân như rơi vào “ma trận”, cùng với đó là các loại phân bón giả, phân bón kém chất lượng tràn lan, gây thiệt hại lớn cho người nông dân, ngành nông nghiệp. Bên cạnh đó việc quản lý phân bón thời gian qua còn rất nhiều bất cập.
 Để khắc phục tình trạng này, Nghị định 108/2017/NĐ-CP (Nghị định 108) được ban hành thay thế Nghị định 202/2013/NĐ-CP (Nghị định 202) về quản lý phân bón.
 Đặc biệt, mới đây Chính phủ đã quyết định giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý phân bón, thay vì cùng với Bộ Công Thương quản lý.
 Phóng viên BNEWS/TTXVN đã có cuộc trao đổi với ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) để làm rõ vấn đề này.
 Phóng viên: Theo ông, Nghị định 108 của Chính phủ có ảnh hưởng như thế nào đến việc quản lý phân bón tại Việt Nam?
Ông Hoàng Trung: Khi xây dựng Nghị định 108 để thay thế cho Nghị định 202/2013/NĐ-CP đã có nhiều điểm mới tác động tích cực ngay cả trước mắt và lâu dài.
Cụ thể, phương thức quản lý được thay đổi, từ đó quản lý được đầu vào chặt chẽ và bài bản hơn. Qua đó, xác định được có bao nhiêu sản phẩm phân bón đăng ký và lưu hành trên thị trường Việt Nam; đồng thời xác định và đưa ra chiến lược phát triển ngành phân bón nói chung và định hướng phát triển phân bón thời gian tới.
Bên cạnh đó, cũng cần phải xem xét lại việc sử dụng phân bón vô cơ và phân bón hữu cơ, đặc biệt là chuyển dịch dần sang sử dụng phân bón hữu cơ; nâng tỷ trọng sử dụng phân bón hữu cơ nhiều hơn trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp.
Đối với khâu khảo nghiệm phân bón, trong Nghị định 108 đã được xây dựng rất chặt chẽ nhằm đảm bảo các loại phân bón nào từ thời điểm này trở đi được công nhận và lưu hành tại Việt Nam thì phải có những ưu điểm vượt trội, chứ không phải như các loại phân bón thông thường bởi hiện nay đang có quá nhiều loại phân bón.
Thực tế, sau khi tiếp nhận từ Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tiếp tục tổng hợp các số liệu, chắc chắn rằng con số sẽ là hơn 14.174 loại phân bón.
Điều kiện liên quan đến sản xuất cũng được quy định khá chặt chẽ và làm rõ hơn tất cả các công nghệ, đặc biệt tránh tình trạng sản xuất theo phương thức “cuốc xẻng”. Đây cũng là một khâu nếu quản lý không tốt sẽ dẫn tới sản xuất những loại phân bón kém chất lượng và cũng là tiếp tay cho phân bón giả.
Ngoài ra, Nghị định 108 cũng có sự phân cấp và giao trách nhiệm cho các địa phương rất rõ ràng. Hiện nay, có 6/8 nhiệm vụ đã phân cấp cụ thể cho các địa phương. Đặc biệt, địa phương nào để tình trạng phân bón giả, phân bón kém chất lượng xảy ra thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.
Phóng viên: Vậy xin ông cho biết, đâu là giải pháp quan trọng trong việc quản lý phân bón hiện nay, trong khi số lượng phân bón rất lớn và nguồn cung gấp 3 lần cầu?
Ông Hoàng Trung: Trước đây, trách nhiệm quản lý thuộc 2 bộ. Cụ thể, phân vô cơ do Bộ Công Thương quản lý, còn phân hữu cơ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý. Sau khi Nghị định 108 ra đời, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mới chính thức nhận bàn giao từ Bộ Công Thương, thì riêng phân bón vô cơ là 13.423 sản phẩm và 545 nhà máy (cơ sở sản xuất phân bón), 41 phòng thực nghiệm...
Sau khi tính toán lại, với tổng công suất của các nhà máy đang có (chưa kể hiện đang còn hơn 200 hồ sơ đang nằm chờ) thì riêng phân vô cơ là 26 - 28 triệu tấn/năm; phân hữu cơ khoảng 2,5 triệu tấn/năm. Bên cạnh đó, nhập khẩu gần 4 triệu tấn/năm.
Như vậy, trong 1 năm có khoảng 32 - 34 triệu tấn phân bón được sản xuất, trong khi nhu cầu sử dụng phân bón chỉ khoảng 10 - 11 triệu tấn. Như vậy số lượng sản xuất ra gấp hơn 3 lần nhu cầu sử dụng.
Để giải quyết bài toán này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra giải pháp siết chặt đầu vào. Thực tế, hơn 2 tháng qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa tiếp nhận thêm hồ sơ sản xuất mới. Bên cạnh đó, rà soát lại những sản phẩm nào không đáp ứng yêu cầu thì sẽ loại bỏ.
Còn những sản phẩm nào đã chấp hành đầy đủ các quy định theo Nghị định 202 trước đây thì vẫn tiếp tục công nhận lại, tránh gây tổn thương đối với các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Từ đó, từng bước tinh lọc lại danh mục, sản phẩm được sử dụng trong thời gian tới.
Đồng thời, thanh kiểm tra toàn diện lại các sơ sở sản xuất, nếu không đủ điều kiện sẽ tước giấy phép theo quy định; khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp làm ăn chân chính, có tiềm lực về tài chính, sản phẩm có chất lượng đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, rà soát lại tất cả các phòng kiểm nghiệm, bởi đây là công cụ để cơ quan quản lý Nhà nước kiểm tra chất lượng sản phẩm...
Phóng viên: Một số ý kiến cho rằng trong quy định việc cấp phép, nhập khẩu, sản xuất phân bón có nhiều giấy phép con gây mất thời gian và phát sinh chi phí cho doanh nghiệp. Quan điểm của ông về vấn đề này như nào?
Ông Hoàng Trung: Đây là do mọi người chưa hiểu hết vấn đề. Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là tổ chức hội nghị để tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn từng nội dụng để giúp cho doanh nghiệp hiểu.
Còn đối với chi phí thì việc này không phải do Cục Bảo vệ Thực vật làm mà theo phương thức xã hội hóa. Đây là chủ trương của Chính phủ, có những việc làm xã hội hóa là hệ thống khảo nghiệm, các phòng kiểm nghiệm...
Ví dụ, việc đào tạo, tập huấn cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mà sau này có đủ điều kiện để sản xuất phân bón thì Cục đứng ra đào tạo miễn phí và các tổ chức cá nhân không phải chi phí. Còn đối với các thủ tục hành chính khác thì Nghị định 108 đã đơn giản hơn và dễ hiểu hơn rất nhiều so với Nghị định 202.
Phóng viên: Cục Bảo vệ Thực vật đang đề xuất các giải pháp, chế tài xử lý đủ mạnh để giải quyết tình trạng phân bón giả, phân bón kém chất lượng. Ông có thể nói rõ hơn các giải pháp này?
Ông Hoàng Trung: Ngoài Nghị định 108 thì Chính phủ cũng cho phép Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng riêng Nghị định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực phân bón trên cơ sở kế thừa lại Nghị định 163 cũng như Nghị định sửa đổi 115 của Chính phủ trong lĩnh vực phân bón.
Với chủ trương của Nghị định mới là rất rõ ràng, có chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe. Theo đó, tăng tối đa mức xử phạt bằng tiền từ 2-7 lần đối với các vi phạm; Áp và tăng các hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục.
Ví như nếu kiểm tra 1 nhà máy mà có dấu hiệu vi phạm hoặc vi phạm thì có thể đình chỉ không cho sản xuất, nếu tái phạm sẽ cho đóng cửa vĩnh viễn; thu hồi và tước các giấy phép.
Đối với các hành vi vi phạm trong nhập khẩu phân bón, ngoài vấn đề phạt tiền thì sẽ áp dụng 2 hình thức chính là cho tái xuất và tiêu hủy, chứ không có chuyện tái chế hoặc chuyển đổi sang mục đích khác...
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!