Rau quả của Việt Nam xuất khẩu tới 75% kim ngạch sang thị trường Trung Quốc, tăng 42% so với quý 1/2017, đạt 726,62 triệu USD.

Ngoài thị trường chủ đạo Trung Quốc, rau quả Việt Nam còn xuất khẩu sang các thị trường trên 10 triệu USD như: Mỹ 28,95 triệu USD, tăng 18,3%; Nhật Bản 28,38 triệu USD, tăng 26,4%; Hàn Quốc 23,92 triệu USD, tăng 8,3%; Malaysia 14,54 triệu USD, tăng 19%; Hà Lan 13,32 triệu USD, tăng 22,7%; U.A.E 10,2 triệu USD, tăng 15%.

Nhìn chung, xuất khẩu rau quả trong quý 1 năm nay sang phần lớn các thị trường đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, xuất khẩu sang thị trường Campuchia tăng trưởng mạnh nhất 247,9%, mặc dù chỉ đạt 0,63 triệu USD. Bên cạnh đó, rau quả xuất khẩu còn tăng mạnh ở các thị trường như: Kuwait tăng 150%, đạt 0,74 triệu USD; Italia tăng 39,5%, đạt 0,61 triệu USD; Pháp tăng 61,7%, đạt 6,09 triệu USD.

Rau quả của Việt Nam xuất khẩu đang có triển vọng tốt, hơn nữa giá trái cây tại thị trường trong nước cũng đang có giá khá tốt. Trong tháng 3/2018, giá nhiều loại trái cây tăng do nhu cầu tăng, trong khi giá rau tại một số tỉnh đặc biệt là khu vực phía Bắc lại giảm mạnh.

Cụ thể, giá mít Thái tại một số tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tăng cao, đạt mức kỷ lục từ 40.000- 50.000 đồng/kg, tăng gấp 2 - 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giá mít tăng cao là do xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong thời gian qua khá thuận lợi.

Bên cạnh đó, mặc dù dưa hấu tại tỉnh Trà Vinh hiện đang vào vụ thu hoạch nhưng giá vẫn ở mức cao 7.400 đồng/kg. Vú sữa tại tỉnh Tiền Giang dao động từ 18.000 - 20.000 đồng/kg, cao hơn cùng kỳ năm trước khoảng 5.000 đồng/kg.

Tuy nhiên, thị trường rau củ tại Lâm Đồng và một số các tỉnh miền Bắc trong tháng 3/2018 lại diễn biến theo xu hướng giảm. Cụ thể, khoai tây hiện chỉ còn 10.000 - 11.000 đồng/kg (loại 1), hành tây 3.000 đồng/kg (giảm 4 lần so với trước Tết), cà rốt giảm từ 25.900 đồng xuống còn 20.900 đồng/kg; bắp cải trắng từ 11.500 đồng/kg xuống còn 9.500 đồng/kg. Đặc biệt, giá củ cải và su hào tại một số tỉnh miền Bắc giảm mạnh, chỉ ở mức 1.000 - 1.200 đồng/kg. Nguyên nhân chính vẫn là do nguồn cung gia tăng với điều kiện thời tiết thuận lợi trong khi nhu cầu vẫn không có đột biến.

Nhìn lại Quý I/2018, BộNông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, thị trường trái cây và rau củ biến động tăng giảm thất thường bởi tính thời vụ cũng như sự tác động của nhu cầu tăng cao khi vào những dịp nghỉ lễ Tết.

Để đẩy mạnh xuất khẩu rau quả, ông Trần Văn Công, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, hiện sản phẩm vải, nhãn đã mở cửa được một số thị trường lớn khó tính. Cùng với việc tăng cường đàm phán mở rộng thị trường xuất khẩu mới, điều này sẽ giúp tiếp tục mở cửa thị trường các sản phẩm này thời gian tới.

Đối với thị trường truyền thống, việc mới đây cơ quan quản lý Quảng Tây (Trung Quốc) thông tin về yêu cầu truy xuất nguồn gốc hoa quả xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc qua các cửa khẩu nhập khẩu hoa quả thuộc địa bàn này, theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn, quan điểm của Việt Nam là từng bước đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch, hài hòa hóa các quy định về kiểm soát, đảm bảo an toàn thực phẩm.

Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục rà soát quy hoạch, đánh giá lợi thế, tiềm năng để xây dựng cơ cấu sản phẩm theo 3 trục sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, trong năm 2018 ngành sẽ tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản và thủy sản, nhất là chế biến rau quả và các sản phẩm chăn nuôi (gà, lợn), phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Xuất khẩu rau quả quý 1 năm 2018

ĐVT: USD

Thị trường

T3/2018

Quý 1/2018

(%) T3/2018 so với T2/2018

(%) quý 1/2018 so với cùng kỳ

Tổng kim ngạch XK

321.576.678

970087761

20,37

38,45

Trung Quốc

225.054.355

726.624.704

8,75

41,93

Mỹ

10.582.407

28.948.497

47,64

18,27

Nhật Bản

11.174.783

28.378.854

63,73

26,41

Hàn Quốc

10.770.114

23.916.438

72,95

8,33

Thái Lan

5.618.761

18.108.441

11,4

23,11

Malaysia

6.013.495

14.540.432

58,21

18,98

Hà Lan

5.375.696

13.317.080

53,32

22,65

U.A.E

3.899.357

10.199.331

20,46

15,02

Singapore

3.082.424

8.109.931

31,7

21,49

Nga

2.293.070

6.928.792

31,57

-22,99

Đài Loan

2.379.194

6.643.043

160,42

-11,07

Australia

1.944.320

6.172.293

36,53

26,07

Pháp

2.302.385

6.094.008

12,42

61,73

Canada

2.027.715

5.511.498

36,06

37,22

Hồng Kông

2.013.400

4.718.538

136,4

2,1

Đức

1.654.961

3.451.021

73,29

35,06

Lào

822.783

2.603.937

5,35

28,72

Anh

297.099

1.029.468

-30,94

-39,34

Kuwait

293.514

736.804

930,6

150,09

Campuchia

364.552

630.887

164,93

247,85

Italia

113.460

613.469

-63,21

39,45

Indonesia

161.620

248.620

154,52

-62,25

(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ) 

 

Nguồn: Vinanet