Sản lượng sản xuất ô tô tháng 9 năm 2019 đạt 28,2 nghìn chiếc, giảm 5,8% so với tháng trước và giảm 5,2% so với cùng kỳ năm 2018. Tính chung 9 tháng năm 2019, sản lượng sản xuất ô tô ước đạt 243,3 nghìn chiếc, tăng 8,3% so với cùng kỳ.
Để phục vụ cho kỳ triển lãm lớn nhất trong năm Vietnam Motor Show diễn ra vào tháng 10, cũng như để đón đợt mua sắm cuối năm nên các hãng sản xuất xe ô tô cũng như nhập khẩu đều dồn lực cho sản xuất cũng như nhập khẩu.
Từ đầu tháng 9 đến nay, mặc dù đã qua tháng “ngâu”- tháng thấp điểm mua sắm trong năm, tuy nhiên thị trường ô tô Việt Nam tiếp tục chứng kiến hàng loạt hãng xe ưu đãi khủng, giảm giá tăng sức tiêu thụ của người dân.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, tháng 9/2019 nhập khẩu ô tô nguyên chiếc đều tăng cả về lượng và trị giá so với tháng 8/2019, tăng lần lượt 18% và 20,5% tương ứng với 11,10 nghìn chiếc, trị giá 251,73 triệu USD.
Nâng lượng xe nhập khẩu tính từ đầu năm đến hết tháng 9/2019 lên 107,03 nghìn chiếc, trị giá 2,39 tỷ USD, tăng gấp 2,6 lần về lượng (tức tăng 163,2%) và gấp 2,6 lần về trị giá (tức tăng 156,5%) so với cùng kỳ năm 2018.
Hiện nay, thị trường ô tô đang ở giai đoạn cạnh tranh khốc liệt, giá giảm đối với tất cả các phân khúc do nguồn cung từ nhập khẩu, cũng như sản xuất trong nước đang dồi dào.
Ô tô nhập khẩu thuế 0% sẽ không chỉ là ô tô các nước ASEAN như Thái Lan, Indonesia hiện nay mà còn là ô tô từ các quốc gia thành viên của Hiệp định CPTPP và EVFTA như Nhật Bản, Canada, hay Đức, Anh, Pháp trong 7-10 năm tới.
Sự cạnh tranh gay gắt từ ô tô nhập khẩu đang ngày càng gia tăng và ảnh hưởng tới ngành sản xuất ô tô nội địa.
Sản xuất trong nước cũng đang tăng nhanh khi Nhà máy sản xuất ô tô VinFast đã hoàn tất quá trình đầu tư và cho ra những sản phẩm đầu tiên; Thaco và Thành Công ngày một củng cố vị trí dẫn đầu với hàng loạt sản phẩm mới lắp ráp trong nước ra mắt với dải sản phẩm phong phú, mức giá ngày một cạnh tranh.
Ngày 26/9/2019, Nhà máy Liên doanh sản xuất và lắp ráp ô tô MAZ Asia tại tỉnh Hưng Yên cũng đã được khánh thành. Liên doanh MAZ Asia được thành lập giữa trên cơ sở Nghị định thư về hỗ trợ sản xuất phương tiện vận tải có động cơ trên lãnh thổ Việt Nam giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ CH Belarus (Nghị định thư hợp tác về ô tô).
Trong 9 tháng đầu năm 2019, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu ô tô có xuất xứ từ Thái Lan, chiếm 58,25% đạt 62,35 nghìn chiếc, trị giá 1,25 tỷ USD, tăng gấp 2,1 lần về lượng (tương ứng 110,69%) và gấp 2,1 lần về trị giá (tương ứng 112,13%). Riêng tháng 9/2019 cũng đã nhập từ Thái Lan 5,56 nghìn chiếc, trị giá 118,18 triệu USD, tăng 30,36% về lượng và 25,46% về trị giá, với giá nhập bình quân 21252,62 USD/tấn, giảm 3,75% so với tháng 8/2019; so sánh với tháng 9/2018 thì giảm 26,71% về lượng và giảm 24,2% về trị giá, giá nhập bình quân tăng 3,44%.
Thị trường có lượng xe nhập về nhiều đứng thứ hai là Indonesia, đạt 31,89 nghìn chiếc, trị giá 445,2 triệu USD, tăng gấp 5,2 lần về lượng (tức tăng 419,5%) và gấp 4,3 lần về trị giá (tức tăng 332,32%), giá bình quân 13959,75 USD/chiếc, giảm 16,78% so với cùng kỳ.
Tiếp theo là các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Mỹ, Hàn Quốc, Nga…
Nhìn chung, 9 tháng đầu năm 2019, lượng xe nhập khẩu từ các thị trường hầu hết đều tăng mạnh, theo đó tăng nhiều nhất từ thị trường Trung Quốc, tuy chỉ nhập hơn 4 nghìn chiếc, trị giá 162,5 triệu USD nhưng so với cùng kỳ năm 2018 tăng gấp 5,3 lần về lượng (tức tăng 427,42%) và gấp 8,6 lần trị giá (tức tăng 755,36%), giá bình quân cũng tăng 62,18% đạt 40232,55 USD/chiếc.
Ngoài ra, Việt Nam cũng tăng mạnh nhập khẩu từ các thị trường khác như: Mỹ gấp 3,6 lần; Hàn Quốc 2,8 lần; Nhật Bản 2,6 lần và Đức gấp 2,1 lần.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam giảm mạnh nhập khẩu từ thị trường Pháp, giảm 15,63% về lượng và 35,31% về trị giá, tương ứng với 27 chiếc, trị giá 2,45 triệu USD.
Thị trường cung cấp ô tô 9 tháng năm 2019

 

Thị trường

9 tháng năm 2019

+/- so với cùng kỳ 2018 (%)*

Lượng(chiếc)

Trị giá (USD)

Lượng

Trị giá

Thái Lan

62.356

1.258.758.728

110,69

112,13

Indonesia

31.892

445.204.360

419,5

332,32

Trung Quốc

4.040

162.539.490

427,42

755,36

Nhật Bản

2.301

119.701.052

159,71

163,9

Đức

1.222

78.842.978

105,38

159,06

Mỹ

1.117

44.963.809

262,66

163,22

Hàn Quốc

853

60.365.419

175,16

177,01

Nga

553

51.538.043

41,07

77,2

Anh

357

23.309.547

162,5

171,7

Ấn Độ

133

44.603.246

146,3

8.262,57

Canada

50

4.626.203

150

392,08

Pháp

27

2.457.940

-15,63

-35,31

(*Tính toán số liệu từ TCHQ)

Nguồn: VITIC