Ủy ban Thị trường mở Liên bang thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nhận định nền kinh tế Mỹ sẽ giảm 6,5% trong năm 2020 và tỷ lệ thất nghiệp sẽ ở mức 9,3% vào cuối năm nay. Bộ Lao động Mỹ công bố báo cáo về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu trong tuần kết thúc vào ngày 6/6 cho thấy có 1,54 triệu người xin trợ cấp thất nghiệp. Con số này thấp hơn dự kiến nhưng vẫn gần mức cao kỷ lục, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 gây ra tình trạng sa thải lao động hàng loạt trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế Mỹ. Chủ tịch Fed Jerome Powell dự tính lãi suất được dự kiến sẽ duy trì mức gần 0 ít nhất trong năm tới.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khoảng 8% do thị trường ngày càng lo ngại về sự sụt giảm trở lại nhu cầu xăng dầu khi số ca nhiễm mới gia tăng trên toàn cầu.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giảm 7,6% xuống 38,55 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 8,2%, xuống 36,34 USD/thùng. Cả 2 loại dầu đã trải qua phiên sụt giảm tồi tệ nhất lần lượt kể từ ngày 21/7 và 27/4.
Số ca nhiễm virus SARS-CoV-2 tại Mỹ đã vượt mốc 2 triệu ca vào ngày 10/6, đảo chiều tăng trở lại sau 5 tuần sụt giảm. Giữa bối cảnh hầu hết các bang tại Mỹ đã nới lỏng hạn chế đi lại - yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đối với dầu mỏ, tiêu thụ nhiên liệu tại nước này vẫn thấp hơn 20% so với bình thường do người tiêu dùng vẫn mang tâm lý cẩn trọng. Theo dự báo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), triển vọng kinh tế Mỹ sẽ vẫn ảm đạm, khiến nhu cầu xăng dầu suy yếu.
Số liệu từ Chính phủ Mỹ công bố ngày 10/6 cho thấy, dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước bất ngờ tăng 5,7 triệu thùng lên mức cao kỷ lục 538,1 triệu thùng, chủ yếu do lượng dầu nhập khẩu từ Saudi Arabia. Dự trữ xăng tại nước này cũng tăng cao hơn dự kiến lên mức 258,7 triệu thùng.
Ông Gene McGillian, Giám đốc phụ trách mảng nghiên cứu thị trường tại Tradition Energy, cho rằng trên thực tế, dự trữ nhiên liệu đang dôi dư trên quy mô toàn cầu.
Một số nước thuộc Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các nhà sản xuất liên minh (OPEC+), trong đó có Iraq và Nigeria, hiện vẫn chưa tuân thủ thoả thuận cắt giảm sản lượng dầu đã được nhóm này thống nhất.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng khi nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu để tìm tới các tài sản an toàn.
Trong phiên giao dịch vừa qua, giá vàng giao ngay có lúc đạt 1.744,36 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 2/6/2020, kết thúc phiên ở mức 1.730,58 USD/ounce, giảm 0,33% so với cuối phiên liền trước. Vàng kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 1,1% lên 1.739,8 USD/ounce. Tính từ thời điểm giá vàng rơi xuống thấp nhất hơn 3 tháng (1.450,98 USD/ounce trong ngày 16/3/2020) đến nay, giá vàng đã tăng khoảng 20%. Các chỉ số chứng khoán chủ chốt trên toàn cầu giảm điểm trong phiên này trước những lo ngại về làn sóng lây nhiễm Covid-19 lần thứ 2.
Về những kim loại quý khác, giá bạc kỳ hạn giao tháng 7/2020 tăng 9,3 US cent, hay 0,52%, lên 17,889 USD/ounce; bạch kim giao cùng kỳ giảm 22 USD, hay 2,6%, xuống 824 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng và các kim loại khác đều giảm sau triển vọng ảm đạm đối với nền kinh tế Mỹ và những mối lo ngại mới về làn sóng nhiễm Covid-19 thứ 2, dấy lên mối hoài nghi về nhu cầu.
Giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2,8% xuống 5.740 USD/tấn, trong đầu phiên giao dịch đạt mức cao 5.928 USD/tấn; giá đồng tăng khoảng 30% kể từ mức thấp nhất trong tháng 3/2020 và đạt mức cao nhất kể từ tháng 1/2020. Giá nhôm giảm 2% xuống 1.595 USD/tấn, giá kẽm giảm 1,4% xuống 1.993 USD/tấn, giá chì giảm 0,8% xuống 1.737 USD/tấn, giá thiếc giảm 1,4% xuống 16.940 USD/tấn và giá nickel giảm 2,8% xuống 12.645 USD/tấn.
Giá thép cây tại Trung Quốc giảm phiên thứ 3 liên tiếp do lo ngại thời tiết khắc nghiệt có thể làm gián đoạn hoạt động xây dựng. Thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 0,2% xuống 3.596 CNY (508,64 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,2% lên 3.538 CNY/tấn sau khi Trung Quốc báo cáo doanh số bán ô tô tăng tháng thứ 2 liên tiếp trong tháng 5/2020. Giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 0,5% xuống 12.820 CNY/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Đại Liên giảm phiên thứ 3 liên tiếp, giảm 0,6% xuống 759 CNY/tấn. Trong khi giá quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc không thay đổi ở mức 105 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ giảm sau báo cáo cung cầu hàng tháng của Bộ Nông nghiệp Mỹ ước tính tồn trữ lúa mì toàn cầu đạt mức cao kỷ lục.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn Chicago giảm 7 US cent xuống 4,99-1/4 USD/bushel. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 1/2 US cent lên 8,66 USD/bushel và giá ngô kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 3-1/2 US cent lên 3,29-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn ICE giảm 0,29 US cent tương đương 2,4% xuống 11,94 US cent/lb, giảm từ mức cao nhất gần 3 tháng trong ngày 8/6/2020; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn London giảm 7,1 USD tương đương 1,8% xuống 387,8 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn New York giảm 0,75 US cent tương đương 0,8% xuống 96 US cent/lb, thấp nhất kể từ giữa tháng 10/2019; robusta kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Chicago giảm 26 USD tương đương 2,1% xuống 1.227 USD/tấn.
Ở Châu Á, giá cà phê tại Việt Nam duy trì ổn định, lượng giao dịch thấp khi người trồng cà phê đã bán gần hết sản lượng của niên vụ này.
Giá chào bán cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) ở mức cộng 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn London của phiên liền trước, không thay đổi so với cách đây 1 tuần. Trong nước, cà phê nhân xô được bán với giá 32.000 đồng (1,38 USD)/kg, không thay đổi so với cách đây 1 tuần. Niên vụ cà phê hiện tại 2019/20 sẽ chính thức kết thúc vào cuối tháng 9/2020 và vụ thu hoạch mới bắt đầu vào tháng 10/2020. Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo, sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2020/21 sẽ giảm 3,5% xuống 30,2 triệu bao (60 kg), do thời tiết không thuận lợi. Các thương nhân Việt Nam cũng dự kiến sản lượng cà phê niên vụ tới sẽ giảm 10-15%.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 350 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn London, không thay đổi so với cách đây 1 tuần.
Giá cao su tại Tokyo giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần, do JPY tăng và thị trường chứng khoán Tokyo giảm sau triển vọng kinh tế ảm đạm bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, khiến các nhà đầu tư đứng ngoài thị trường. Cao su kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn TOCOM giảm 3 JPY xuống 160 JPY (1,5 USD)/kg, trong đầu phiên giao dịch chạm 159,5 JPY/kg - thấp nhất kể từ ngày 5/6/2020; cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 45 CNY xuống 10.545 CNY (1.492 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 12/6/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

35,14

-1,20

-3,30%

Dầu Brent

USD/thùng

37,58

-0,97

-2,52%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

25.750,00

-1.760,00

-6,40%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,81

0,00

-0,06%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

108,63

-3,25

-2,90%

Dầu đốt

US cent/gallon

106,18

-2,62

-2,41%

Dầu khí

USD/tấn

314,50

-8,25

-2,56%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

37.340,00

-1.760,00

-4,50%

Vàng New York

USD/ounce

1.730,20

-9,60

-0,55%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.933,00

-15,00

-0,25%

Bạc New York

USD/ounce

17,48

-0,41

-2,29%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,40

-0,50

-0,79%

Bạch kim

USD/ounce

810,66

-4,04

-0,50%

Palađi

USD/ounce

1.935,21

-5,38

-0,28%

Đồng New York

US cent/lb

258,00

-0,65

-0,25%

Đồng LME

USD/tấn

5.764,50

-142,50

-2,41%

Nhôm LME

USD/tấn

1.601,50

-26,00

-1,60%

Kẽm LME

USD/tấn

2.007,00

-13,50

-0,67%

Thiếc LME

USD/tấn

16.918,00

-272,00

-1,58%

Ngô

US cent/bushel

329,25

-0,50

-0,15%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

503,25

-2,50

-0,49%

Lúa mạch

US cent/bushel

321,25

+2,25

+0,71%

Gạo thô

USD/cwt

11,93

+0,01

+0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

874,50

-2,25

-0,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

289,70

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,28

-0,16

-0,56%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

471,50

-0,30

-0,06%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.291,00

-103,00

-4,30%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,70

-0,85

-0,86%

Đường thô

US cent/lb

12,10

-0,28

-2,26%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

129,30

+2,80

+2,21%

Bông

US cent/lb

59,27

-0,22

-0,37%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

351,00

-11,00

-3,04%

Cao su TOCOM

JPY/kg

157,80

-2,20

-1,37%

Ethanol CME

USD/gallon

1,19

-0,05

-3,87%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg