Trên thị trường năng lượng, giá dầu đảo chiều tăng sau 5 phiên liên tiếp giảm giữa bối cảnh Mỹ và Trung Quốc chuẩn bị ký kết một thỏa thuận thương mại giai đoạn một sơ bộ và tình hình căng thẳng ở khu vực Trung Đông hạ nhiệt.
Kết thúc phiên này, dầu Brent Biển Bắc tăng 29 US cent (hay 0,5%) lên 64,49 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 15 US cent lên 58,23 USD/thùng.
Theo báo cáo của Viện Dầu khí Mỹ (API), tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần đến ngày 10/1 bất ngờ tăng thêm 1,1 triệu thùng, trái ngược với dự báo giảm 474.000 thùng của các chuyên gia. Bộ Năng lượng Mỹ sẽ công bố số liệu chính thức về tồn trữ dầu mỏ hàng tuần của Mỹ trong ngày 15/1.
Kỳ vọng Mỹ và Trung Quốc ký thỏa thuận thương mại Giai đoạn một vào ngày 15/1 - được xem như một bước đi quan trọng để chấm dứt các tranh chấp thương mại - thúc đẩy thị trường khởi sắc. Cuộc chiến thương mại suốt nhiều tháng qua đã ảnh hưởng xấu đến đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu và tác động đến nhu cầu dầu mỏ.
Tổng thống Mỹ Donald Trump và Phó Thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc có kế hoạch ký thỏa thuận thương mại Giai đoạn một vào ngày 15/1, sau cuộc chiến thuế quan kéo dài gần 18 tháng. Thỏa thuận này là bước đi đầu tiên hướng đến một thỏa thuận thương mại toàn diện hơn giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Theo đó, Trung Quốc cam kết sẽ mua các mặt hàng năng lượng trị giá hơn 50 tỷ USD từ Mỹ trong 2 năm tới.
Bất chấp các ảnh hưởng từ việc tranh chấp thương mại, nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc năm 2019 tăng 9,5%, ghi dấu kỷ lục 17 năm tăng liên tiếp, do nhu cầu dầu thô tăng cao từ các nhà máy lọc dầu ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Trong khi đó, Cơ quan Năng lượng Mỹ (EIA) dự báo tốc độ tăng sản lượng dầu mỏ ở nền kinh tế số 1 thế giới sẽ chậm lại còn 3% vào năm 2021, mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2016.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm nhẹ cũng bởi các nhà đầu tư chờ đợi việc ký kết thỏa thuận thương mại giai đoạn một giữa Mỹ và Trung Quốc – điều sẽ làm giảm sự hấp dẫn của vàng đối với các nhà đầu tư, trong khi giá palađi cao kỷ lục do thiếu hụt nguồn cung kéo dài.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.546,48 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,4% xuống 1.535,63 USD/ounce.
Chuyên gia cao cấp của RJO Futures, Bob Haberkorn, cho hay giá vàng tăng mạnh trong tuần trước nhờ những thông tin về căng thẳng Mỹ - Iran. Tuy nhiên, căng thẳng Mỹ- Iran hạ nhiệt cùng với việc Mỹ và Trung Quốc sẽ ký thỏa thuận thương mại giai đoạn một vào ngày 15/1, đã đẩy giá vàng đi xuống.
Trước khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ký thỏa thuận thương mại giai đoạn một với Trung Quốc, Bộ Tài chính Mỹ khẳng định trong báo cáo nửa năm một lần trình Quốc hội rằng đồng nhân dân tệ (NDT) đã mạnh lên và Trung Quốc không còn bị coi là một quốc gia thao túng tiền tệ.
Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng đang ngóng chờ báo cáo Beige Book (Sách Be) của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) về tình hình kinh tế nước này trong ngày 15/1.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1% xuống 17,78 USD/ounce vào cuối phiên, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 12/2019 là 17,64 USD/ounce; giá palađi tăng mạnh và đạt 982,26 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,9% xuống 982,26 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng đạt mức cao nhất 8 tháng do số liệu thương mại của Trung Quốc – nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới – tốt hơn so với dự kiến, cho thấy nhu cầu hồi phục và đồng CNY tăng mạnh.
Giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,2% lên 6.302 USD/tấn vào cuối phiên, trong phiên có lúc đạt 6.314,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 1/5/2019. Tính từ đầu tuần đến nay, giá đồng tăng 1,7%.
Nhà phân tích Nick Snowdon thuộc Deutsche Bank cho biết, các yếu tố kinh tế vĩ mô, bao gồm đồng CNY tăng mạnh, số liệu thương mại Trung Quốc vững chắc và việc ký kết thỏa thuận thương mại Giai đoạn 1 giữa Mỹ và Trung Quốc trong tuần này đã thúc đẩy giá đồng tăng. Ông dự báo giá đồng sẽ đạt khoảng 6.500 USD/tấn do nguồn cung đồng trong quý 2/2020 thắt chặt khi nhu cầu tăng.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc cũng đảo chiều tăng, kết thúc chuỗi 3 phiên giảm, do lo ngại về khả năng gián đoạn xuất khẩu quặng sắt từ nước cung cấp hàng đầu – Australia – nơi bắt đầu mùa mưa bão.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Đại Liên tăng 2,1% lên 671,5 CNY (97,6 USD)/tấn; kỳ hạn tháng 2/2020 trên sàn Singapore tăng 1,5%. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cuộn cán nóng tăng 0,5%, trong khi giá thép không gỉ giảm 0,7%.
Mối lo ngại về nguồn cung đã thúc đẩy giá quặng sắt tăng do tồn trữ nguyên liệu này tại các cảng của Trung Quốc trong tuần đến ngày 10/1/2020 giảm tuần thứ 2 liên tiếp, xuống 127,9 triệu tấn, thấp nhất kể từ giữa tháng 12/2019, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome. Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong năm 2019 tăng 0,5% lên 1,069 tỷ tấn, chỉ dưới mức cao kỷ lục năm 2017 do nhu cầu tại các nhà máy thép tăng mạnh và xuất khẩu từ các mỏ khai thác lớn hồi phục sau khi bị gián đoạn hồi đầu năm.
Trên thị trường nông sản, giá đường đạt mức cao nhất 2 năm, trong bối cảnh nguồn cung thắt chặt và hoạt động mua mạnh. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York kết thúc phiên tăng 0,28 US cent, tương đương 2%, lên 14,43 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 14,48 US cent/lb, cao nhất 2 năm; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London cuối phiên tăng 11,5 USD tương đương 3% lên 394,7 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 400 USD/tấn, cao nhất 2 năm.
Trong khi đó, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York giảm 0,1 US cent, tương đương 0,1%, xuống 1,1445 USD/lb, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất 1,5 tháng; robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 16 USD, tương đương 1,2%, lên 1.328 USD/tấn.
Giá lúa mì tại Mỹ đạt mức cao nhất 6 tháng do hoạt động xuất khẩu tăng mạnh và Nga – nước xuất khẩu lúa mì hàng đầu thế giới – đang xem xét hạn chế xuất khẩu ngũ cốc đến tháng 6/2020. Trên sàn Chicago, lúa mì kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 5-1/4 US cent lên 5,67-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 5,73 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 28/6/2019; giá ngô giao cùng kỳ hạn giảm 1 US cent xuống 3,88-1/2 USD/bushel; trong khi đậu tương kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 2 US cent xuống 9,4-1/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm phiên thứ 2 liên tiếp do đồng ringgit tăng mạnh và giá các loại dầu thực vật khác đi xuống giữa lúc Ấn Độ thông báo tạm dừng nhập khẩu dầu cọ từ Malaysia. Cuối phiên, dầu cọ kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 29 ringgit, tương đương 1%, xuống 3.063 ringgit (754,43 USD)/tấn.
Giá cao su tại Tokyo tăng hơn 3% bởi lạc quan về thỏa thuận thương mại Mỹ - Trung Giai đoạn 1. Cao su kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn TOCOM tăng 6,4 JPY (0,0582 USD) lên 207,8 JPY/kg. Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 30 CNY (4,36 USD) xuống 13.250 CNY/tấn; giá cao su TSR20 giảm 50 CNY xuống 10.870 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

58,23

+0,15

+0,17%

Dầu Brent

USD/thùng

64,49

+0,29

+0,5%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.260,00

-50,00

-0,12%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,18

0,00

-0,14%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

165,88

+0,44

+0,27%

Dầu đốt

US cent/gallon

190,31

-0,72

-0,38%

Dầu khí

USD/tấn

578,75

-0,75

-0,13%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

58.260,00

+50,00

+0,09%

Vàng New York

USD/ounce

1.547,40

+2,80

+0,18%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.461,00

+25,00

+0,46%

Bạc New York

USD/ounce

17,78

+0,04

+0,21%

Bạc TOCOM

JPY/g

63,00

+0,10

+0,16%

Bạch kim

USD/ounce

988,19

+3,87

+0,39%

Palađi

USD/ounce

2.190,50

-7,25

-0,33%

Đồng New York

US cent/lb

285,95

-1,40

-0,49%

Đồng LME

USD/tấn

6.302,00

+12,00

+0,19%

Nhôm LME

USD/tấn

1.809,00

+11,00

+0,61%

Kẽm LME

USD/tấn

2.373,50

-4,50

-0,19%

Thiếc LME

USD/tấn

17.430,00

+55,00

+0,32%

Ngô

US cent/bushel

388,25

-0,75

-0,19%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

568,25

-0,25

-0,04%

Lúa mạch

US cent/bushel

311,75

-1,25

-0,40%

Gạo thô

USD/cwt

13,37

+0,02

+0,11%

Đậu tương

US cent/bushel

941,00

-1,25

-0,13%

Khô đậu tương

USD/tấn

302,00

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,01

-0,06

-0,18%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

481,40

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.655,00

+72,00

+2,79%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

114,90

+0,35

+0,31%

Đường thô

US cent/lb

14,32

+0,16

+1,13%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

96,55

+0,95

+0,99%

Bông

US cent/lb

71,38

-0,15

-0,21%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

420,40

-2,20

-0,52%

Cao su TOCOM

JPY/kg

207,10

-0,70

-0,34%

Ethanol CME

USD/gallon

1,36

-0,01

-0,51%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg