Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do hoạt động lọc dầu của Mỹ được cải thiện, mặc dù
các kho dự trữ dầu thô và dầu diesel tại nước này gia tăng đột ngột giữa bối cảnh lo ngại rằng luật an ninh Hong Kong (Trung Quốc) có thể dẫn đến các biện pháp trừng phạt thương mại.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giao tháng 7/2020 tăng 1,6% lên 35,29 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 2,7% lên 33,71 USD/thùng.
Thị trường ban đầu giảm giá do tồn kho dầu thô tăng mạnh, nhưng đã chuyển sang tích cực do tồn kho tại Cushing, điểm phân phối dầu WTI giảm.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 7,9 triệu thùng trong tuần trước, vượt các mức dự đoán của giới phân tích, do lượng dầu mà Mỹ nhập khẩu từ Saudi Arabia tăng mạnh. Tuy nhiên, báo cáo của EIA cũng cho thấy, các nhà lọc dầu của Mỹ đã tăng sản lượng và dự trữ xăng tại nước này bất ngờ giảm, trong khi dự trữ dầu thô tại kho chứa Oklahoma giảm 3,4 triệu thùng dầu.
Thị trường đang dấy lên lo ngại rằng Mỹ có thể áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại đối với Trung Quốc, sau khi Quốc hội khóa 13 Trung Quốc ngày 28/5/2020 bỏ phiếu thông qua nghị quyết có tên "Quyết định về thiết lập và cải thiện hệ thống pháp lý cùng các cơ chế thực thi dành cho Hong Kong để đảm bảo an ninh quốc gia".
Sự không chắc chắn liên quan đến cam kết của Nga tiếp tục giảm sâu sản lượng khai thác đã kiềm chế đà tăng của giá dầu. Theo các nguồn tin từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (và các nhà sản xuất liên minh, còn gọi là OPEC+, Saudi Arabia và các nhà sản xuất khác trong OPEC đang cân nhắc gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng đến cuối năm nay, song chưa nhận được sự ủng hộ từ Nga.
Giá dầu phục hồi trong những tuần gần đây do dự đoán nhu cầu cải thiện sau khi giảm khoảng 30% do đại dịch. Đầu tư tổng thể đang giảm và việc cắt giảm sản lượng của Mỹ đang cân bằng với tình trạng dư cung, nhưng nhu cầu vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mặc dù chứng khoán phố Wall khởi sắc, do căng thẳng Mỹ - Trung leo thang.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.712,35 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 6/2020 tăng 0,1% lên 1.728,3 USD/ounce.
Giá vàng tăng do những dấu hiệu mới liên quan đến tác động kinh tế từ đại dịch COVID-19 cũng như căng thẳng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Số liệu mới nhất cho thấy lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại Mỹ đứng ở mức trên 2 triệu đơn tuần thứ 10 liên tiếp trong tuần trước, phản ánh tác động kinh tế nghiêm trọng do đại dịch COVID-19 gây ra. Nhật Bản đã thông qua gói kích thích 1,1 nghìn tỷ USD và Liên minh Châu Âu công bố một gói 750 tỷ euro điều này cũng hỗ trợ giá vàng.
Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump có thể sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại đối với Trung Quốc về vụ áp luật lên đặc khu hành chính Hongkong.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng 0,5% lên 1.945,63 USD/ounce, giá bạch kim tăng 2% lên 835,54 USD/ounce, trong khi giá bạc giảm 0,1% xuống 17,29 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm duy trì ở mức gần cao nhất 2 tháng do kỳ vọng nhu cầu tăng từ Trung Quốc, nước tiêu thụ hàng đầu thế giới đã hỗ trợ tâm lý, nhưng thị trường toàn cầu dư thừa lớn dự kiến hạn chế đà tăng.
Trên sàn giao dịch kim loại London (LME), nhôm kỳ hạn giao sau 3 tháng tăng 0,8% lên 1.537 USD/tấn. Giá kim loại này được sử dụng rộng rãi trong ngành vận tải và đóng gói trong phiên đã chạm 1.538,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 30/3.
Kỳ vọng về nhu cầu nhôm mạnh hơn do hoạt động công nghiệp tăng cường tại Trung Quốc đã giúp tăng giá trên sàn LME và trên sàn giao dịch Thượng Hải kể từ đầu tháng 4. Chi phí đầu vào giảm như điện, alumin và carbon đã cho phép các nhà máy luyện nhôm tiếp tục sản xuất mặc dù giá thấp và thua lỗ.
Tồn trữ nhôm tại kho của sàn Thượng Hải đã giảm gần 40% kể từ giữa tháng 3/2020 xuống khoảng 322.000 tấn. Tuy nhiên, dự trữ của sàn LME tăng hơn 50% lên hơn 1,49 triệu tấn trong cùng giai đoạn.
Về những kim loại cơ bản khác, giá đồng tăng 1,6% lên 5.345,5 USD/tấn, kẽm tăng 0,8% lên 1.936 USD/tấn, chì giảm 0,4% xuống 1.631,5 USD/tấn và nickel tăng 1,1% lên 12.250 USD/tấn.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên kết thúc chuỗi 3 ngày liên tiếp giảm. Phiên vừa qua, giá tăng 2,4% bởi nhu cầu mạnh tại các nhà máy thép khi việc xây dựng tái khởi động trong bối cảnh kích thích tiêu dùng của chính phủ.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 đóng cửa tăng 2% lên 711 CNY/tấn; quặng 62% giao ngay vào Trung Quốc tăng 1 USD lên 97 USD/tấn trong ngày 27/5.
Thị trường đang theo dõi số liệu sản xuất và xuất khẩu từ Brazil, nơi có thể thúc đẩy giá nếu tình trạng virus corona tồi tệ hơn tại nhà cung cấp quặng sắt lớn thứ 2 thế giới này.
Giá thép thanh kỳ hạn tháng 10 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 0,4% lên 3.498 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng đóng cửa tăng 1,2% lên 3.447 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 7 giảm 0,8% xuống 13.060 CNY/tấn. Tồn kho thép của các nhà kinh doanh giảm xuống 15,49 triệu tấn trong ngày 28/5, theo số liệu của công ty tư vấn Mysteel.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa ổn định tại 10,8 US cent/lb sau khi giảm xuống 10,55 US cent /lb, thấp nhất 1,5 tuần trong đầu phiên giao dịch; đường trắng kỳ hạn tháng 8 đóng cửa giảm 2,5 USD hay 0,7% xuống 361,5 USD/tấn.
Nhà kinh doanh hàng hóa COFCO của Trung Quốc sẽ sử dụng bến 12A tại cảng Santos, Brazil để di chuyển đường thay vì ngũ cốc bắt đầu trong nửa cuối năm do sản lượng đường tăng tại nhà sản xuất chất ngọt lớn nhất thế giới này.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2020 lúc đóng cửa giảm 3,4 US cent hay 3,3% xuống 99,1 USD/lb, giá thấp nhất kể từ ngày 10/2/2020; cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 giảm 33 USD hay 2,7% xuống 1.177 USD/tấn.
Tiến độ thu hoạch cà phê tại Brazil đang diễn ra thuận lợi và đồng nội tệ của quốc gia này yếu là một số yếu tố giá giảm. Hợp tác xã Cooxupe của Brazil cho biết các nhà sản xuất cà phê của họ đã thu hoạch 6,06% diện tích trồng trọt vào ngày 22/5 tăng nhẹ so với 5,5% trong cùng niên vụ trước.
Ở Châu Á, giá cà phê có xu hướng tăng. Tại Tây Nguyên, cà phê nhân xô được bán với giá 32.000 đồng (1,37 USD)/kg, tăng so với 31.800 đồng cách đây một tuần. Người trồng cà phê đã bán 95 – 98% lượng cà phê đã thu hoạch trong niên vụ 2019/20. Cà phê robusta Việt Nam xuất khẩu (loại 2 với 5% hạt đen và vỡ) giá cộng 200 – 220 USD/tấn so với giá của hợp đồng kỳ hạn tháng 7 trên sàn London, mức cộng một tuần trước là 200 USD.
Ngành cà phê Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi thiếu nhu cầu trong đại dịch Covid-19, mặc dù giá bắt đầu phục hồi trong 2 tuần qua, trong khi nông dân cũng đang đối phó với hạn hán. Thời tiết đã cải thiện, mưa gần đây, nhưng giá thấp đã không khuyến khích nông dân chăm sóc những cây trồng bị ảnh hưởng bởi hạn hán.
Trong khi đó tại tỉnh Lampung, Indonesia, cà phê Sumatra được chào bán với mức cộng 290 – 300 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7, không đổi so với một tuần trước.
Giá cao su tại Tokyo giảm trong phiên qua do luật an ninh của Trung Quốc đối với đặc khu hành chính Hong Kong làm cho mối quan hệ Mỹ - Trung Quốc gia tăng căng thẳng. Cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo giảm 0,4 JPY xuống 153,6 JPY (1,4 USD)/kg; kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 5 CNY xuống 10.270 CNY (1.435 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 29/5/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

33,32

-0,39

-1,16%

Dầu Brent

USD/thùng

35,00

-0,29

-0,82%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

25.390,00

+610,00

+2,46%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,82

-0,01

-0,33%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

99,10

-0,75

-0,75%

Dầu đốt

US cent/gallon

91,75

-0,81

-0,88%

Dầu khí

USD/tấn

281,75

+0,75

+0,27%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

35.840,00

+740,00

+2,11%

Vàng New York

USD/ounce

1.731,60

+3,30

+0,19%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.953,00

-26,00

-0,43%

Bạc New York

USD/ounce

17,93

-0,04

-0,21%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,70

-0,60

-1,00%

Bạch kim

USD/ounce

834,90

-4,02

-0,48%

Palađi

USD/ounce

1.942,65

+5,93

+0,31%

Đồng New York

US cent/lb

240,10

-1,25

-0,52%

Đồng LME

USD/tấn

5.332,50

+73,00

+1,39%

Nhôm LME

USD/tấn

1.537,00

+12,00

+0,79%

Kẽm LME

USD/tấn

1.934,50

+14,00

+0,73%

Thiếc LME

USD/tấn

15.515,00

+215,00

+1,41%

Ngô

US cent/bushel

329,00

+1,50

+0,46%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

514,75

+0,25

+0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

328,00

-0,50

-0,15%

Gạo thô

USD/cwt

17,04

+0,16

+0,92%

Đậu tương

US cent/bushel

843,25

-3,75

-0,44%

Khô đậu tương

USD/tấn

283,60

-0,70

-0,25%

Dầu đậu tương

US cent/lb

27,29

-0,10

-0,37%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

460,90

+0,20

+0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.429,00

+66,00

+2,79%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

99,10

-3,40

-3,32%

Đường thô

US cent/lb

10,80

0,00

0,00%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

127,80

-1,60

-1,24%

Bông

US cent/lb

57,61

+0,04

+0,07%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

368,30

+8,40

+2,33%

Cao su TOCOM

JPY/kg

154,00

+0,40

+0,26%

Ethanol CME

USD/gallon

1,12

+0,00

+0,18%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg