Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động nhẹ giữa bối cảnh giới đầu tư đang chờ đợi quyết định từ các nước sản xuất dầu lớn về việc có duy trì các mức cắt giảm sản lượng hiện tại hay không.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brernt Biển Bắc tăng 20 US cent, tương đương 0,5% lên 39,99 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 12 US cent lên 37,41 USD/thùng.
Saudi Arabia và Nga, hai trong số những nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới, đã nhất trí ủng hộ việc gia hạn đến tháng Bảy thỏa thuận cắt giảm 9,7 triệu thùng dầu/ngày mà Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, còn gọi là OPEC+, đã đạt được hồi tháng Tư. Nhưng đề xuất của Algeria, nước đang giữ chức Chủ tịch OPEC về việc OPEC+ sẽ hợp sớm, vào ngày 4/6/2020, đã bị hoãn lại vì còn chưa thống nhất mức độ tuân thủ thỏa thuận thấp của một số nước. Ngoài ra, Saudi Arabia và các nước sản xuất dầu khác ở vùng Vịnh là Kuwait và Các Tiểu vương quốc Arập Thống Nhất không có ý định duy trì mức tự nguyện cắt giảm sản lượng bổ sung 1,18 triệu thùng/ngày sau tháng 6/2020, có nghĩa là nguồn cung dầu thô sẽ tăng lên vào tháng tới dù OPEC+ có quyết định thế nào đi nữa.
Trong khi đó, xuất hiện những lo ngại về sự gia tăng trở lại của hoạt động sản xuất dầu đá phiến của Mỹ, vốn đang có dấu hiệu phục hồi, là một lý do khiến Nga chỉ ủng hộ kéo dài thỏa thuận cắt giảm đến tháng Bảy chứ không lâu hơn nữa. Trong khi đó, số liệu từ Chính phủ Mỹ ngày 4/6 cho thấy lượng nhiên liệu dự trữ của nước này đã tăng mạnh, giữa lúc nhu cầu vẫn yếu do dịch COVID-19.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 1% do đồng USD và chững khoán Phố Wall yếu đi.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 1,3% lên 1.719,42 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 1,3% lên 1.719,42 USD/ounce.
Sau khi tăng mạnh vào phiên trước đó, thị trường chứng khoán Mỹ chuyển động trái chiều dù lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp tuần qua ở nước này lần đầu tiên giảm xuống dưới 2 triệu đơn kể từ giữa tháng Ba. Chiến lược gia hàng hóa của TD Securities, Daniel Ghali, cho biết: “Thị trường chứng khoán chìm vào sắc đỏ, báo hiệu nhà đầu tư vẫn có nhu cầu mạnh đối với những tài sản an toàn như vàng”. Đồng USD rơi xuống thấp nhất trong vòng gần 3 tháng, làm vàng rẻ hơn cho những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã quyết định bơm thêm 600 tỷ euro (674 tỷ USD) để mua trái phiếu nhằm hỗ trợ nền kinh tế Khu vực đồng euro (Eurozone), qua đó thúc đẩy thị trường cổ phiếu đi lên.
Chuyên gia phân tích Suki Cooper của Standard Chartered lưu ý rằng dù vàng có thể tăng giá trong môi trường rủi ro thì một sự điều chỉnh trên thị trường chứng khoán cũng sẽ ảnh hưởng đến vàng trong thời gian tới. Chuyên gia Suki Cooper dự báo giá vàng sẽ ở mức trung bình 1.700 USD/ounce trong quý III năm nay.
Về các kim loại quý khác, giá palađi giảm 1% xuống 1.928,95 USD/ounce, giá bạch kim tăng 2,1% lên 843,03 USD/ounce, trong khi giá bạc tăng 0,9% lên 17,82 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng trong phiên vừa qua, duy trì ở mức cao nhất 2,5 tháng, sau khi Ngân hàng trung ương Châu Âu và Chính phủ Đức công bố các gói kích thích kinh tế lớn và số người thất nghiệp ở Mỹ giảm xuống.
Đồng kỳ hạn tham chiếu (giao sau 3 tháng) trên sàn London tăng 0,1% lên 5.528 USD/tấn vào lúc đóng cửa, trong phiên có thời điểm đạt 5.552 USD/tấn, mức cao kỷ lục 2,5 tháng như đã đạt được trong phiên liền trước.
Kim loại được sử dụng trong điện và xây dựng đã tăng 25% từ mức thấp hồi tháng 3 khi các nước trên thế giới, nhất là Trung Quốc – nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới – bắt đầu mở cửa thị trường trở lại. Tuy nhiên, giá hiện vẫn thấp hơn 10% so với hồi tháng 1/2020.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt kỳ hạn trên 2 sàn giao dịch Đại Liên và Singapore giảm trong phiên giao dịch vừa qua do nhà đầu tư trở nên thận trọng hơn sau khi giá tăng lúc đầu phiên.
Lo ngại về nguồn cung từ Brazil và lượng tồn trữ ở Trung Quốc giảm đã đẩy giá mặt hàng này liên tục tăng trong những ngày gần đây. Kết thúc phiên 4/6, quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Đại Liên giảm 2,1% xuống 737 CNY (103,49 USD)/tấn, sau khi tăng 2,3% lúc đầu phiên. Trên sàn Singapore, quặng kỳ hạn tháng 6/2020 giảm 1,7% xuống 99,18 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi đạt 101,3 USD/tấn chỉ vài giờ trước đó. Phiên liền trước, quặng sắt 62% giao ngay nhập khẩu vào Trung Quốc đã giảm khỏi mức cao nhất 10 tháng, xuống 101,5 USD/tấn.
Thị trường tiếp tục biến động phiên thứ 2 liên tiếp sau khi sàn Đại Liên yêu cầu các thành viên hãy giao dịch quặng sắt kỳ hạn tương lai một cách “hợp lý” sau khi giá đã vượt 100 USD/tấn, đồng thời tuyên bố sẽ tăng cường giám sát thị trường hàng ngày và xử lý tất cả các hành vi vi phạm để duy trì sự trật tự trên thị trường.
Chuyên gia kinh tế Howie Lee của OCBC ở Singapore bày tỏ “hy vọng giá sẽ ở gần mức 100 USD/tấn cho đến cuối tháng 6/2020”, mặc dù cho biết mức giá này không bền vững vì những nhà máy thép quy mô nhỏ ở Trung Quốc chỉ duy trì hoạt động tốt khi giá quặng nguyên liệu ở mức 80-90 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ trong phiên giao dịch vừa qua đạt mức cao nhất trong vòng gần 2 tháng, trong khi lúa mì tăng hơn 2% và ngô vững do USD yếu đi làm gia tăng hy vọng xuất khẩu ngũ cốc và hạt có dầu của Mỹ sẽ mạnh lên (USD yếu đi làm cho nông sản Mỹ cạnh tranh tốt hơn so với nông sản Brazil).
Trên sàn Chicago, đậu tương kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 10-1/4 US cent lên 8,67-3/4 Bộ Nông nghiệp Mỹ liên tiếp xác nhận doanh số bán đậu tương Mỹ đến một số địa điểm chưa xác định, mà theo các thương nhân thì là khách hàng Trung Quốc, bất chấp căng thẳng chính trị gia tăng giữa Bắc Kinh và Washington. Lúa mì kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 11-3/4 US cent lên 5,23-3/4 USD/bushel, sau khi có thời điểm đạt 5,29 USD – cao nhất kể từ 28/4; và ngô tăng 5 US cent lên 3,29 USD/bushel.
Giá đường tiếp tục tăng trong phiên vừa qua do các quỹ đầu cơ tăng nhu cầu trong bối cảnh kinh tế thế giới dần hồi phục. Đường thô kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn New York tăng 0,11 US cent, tương đương 0,9% lên 11,73 US cent/lb, cao nhất kể từ 11/3/2020. Tâm lý nhà đầu tư chuyển hướng tích cực mặc dù không ai cho rằng giá sẽ quay trở lại mức cao như giữa tháng 2/2020. Nhà môi giới INTL FCStone cho biết, thị trường toàn cầu sẽ chuyển hướng dư thừa trong năm 2020/21, đồng thời cho biết niên vụ 2019/20 thị trường thiếu cung.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 trên sàn London tăng 9,2 USD, tương đương 2,4%, lên 384,80 USD/tấn. Nguồn cung đường trắng đang bị thắt chặt do sản lượng của Thái Lan sụt giảm. Giá đường trắng kỳ hạn 1 tháng cao hơn 20 USD/tấn so với kỳ hạn 2 tháng. Vị thế đảo ngược này cho thấy nhu cầu đường trắng physical đang rất mạnh.
Giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 7 giảm 0,95 US cent, tương đương 1%, xuống 98,15 US cent/lb. Mậc dù vậy, đồng real yếu đi và thu hoạch cà phê của Brazil chậm hơn chút ít so với mức trung bình của cùng thời điểm này các năm trước đang hỗ trợ giá mặt hàng này. Robusta giao cùng kỳ hạn cũng giảm 4 USD (0,3%) xuống 1.198 USD/tấn.
Tại Châu Á, giá cà phê nội địa của Việt Nam vững trong tuần qua vì nguồn cung của người trồng cà phê không còn nhiều, trong khi mức cộng cà phê Indonesia nới rộng do USD yếu đi so với rupiah.
Người trồng cà phê ở Tây Nguyên đang bán cà phê nhân xô với giá 32.000 đồng (1,38 USD)/kg, không thay đổi so với cách đây một tuần. Cà phê robusta xuất khẩu loại 2 (5% đen và vỡ) giá cộng 200 USD/tấn so với kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn London (giao dịch phiên 4/6), thấp hơn chút ít so với mức cộng 200 đến 220 USD/tấn cách đây một tuần.
Reuters dẫn lời một thương gia ở TP HCM cho biết, người trồng cà phê không muốn bán nốt phần 2 đến 2,5% sản lượng năm nay còn lại ở mức giá hiện tại vì thấp dưới chi phí sản xuất. Tuy nhiên, họ cũng không thể nâng giá lên vì căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng và dịch Covid-19.
Trong khi đó tại Indonesia, cà phê robusta Sumatra của tỉnh Lampung giá cộng 350 USD/tấn, so với 290-300 USD/tấn cách đây một tuần. Đồng rupiah của Indonesia đã tăng hơn 3% so với USD từ đầu tuần tới nay. Indonesia đã xuất khẩu 7.966,2 tấn cà phê robusta Sumatra từ tỉnh Lampung trong tháng 5/2020, giảm 9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá dầu cọ giảm trên 3% trong phiên giao dịch vừa qua khi các nhà đầu tư bán chốt lời sau 2 phiên tăng mạnh trước đó, giữa bối cảnh ước tính lượng tồn trữ tháng 5/2020 tăng lên. Trong khi đó, giá dầu đậu tương trên sàn Đại Liên cũng giảm 0,63%, và dầu cọ trên sàn Chicago giảm 1,18%. Các loại dầu thực vật có sự cạnh tranh trực tiếp với nhau trên thị trường toàn cầu.
Dầu cọ kỳ hạn giao tháng 8 trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 3% xuống 2.326 ringgit (543,84 USD)/tấn. Hai phiên liền trước, giá dầu cọ đã tăng 2,5% và đạt mức cao nhất 2 tháng ở phiên 3/6/2020.
CGS-CIMB Research dự báo sản lượng dầu cọ Malaysia, nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới, có thể đã tăng 3% trong tháng 5/2020. Trong khi đó, nhập khẩu dầu cọ Ấn Độ tháng 5/2020 giảm 53% so với cùng kỳ năm trước do chính sách phong tỏa toàn quốc chống Covid-19. Nghi ngờ khả năng OPEC+ không đạt được thỏa thuận tiếp tục cắt giảm sản lượng sâu sau tháng 6/2020 cũng góp phần gây áp lực lên giá dầu cọ.
Giá hàng hóa thế giới sáng 5/6/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

37,39

-0,02

-0,05%

Dầu Brent

USD/thùng

39,99

+0,20

+0,50%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

27.900,00

+560,00

+2,05%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,82

0,00

-0,05%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

114,73

-0,17

-0,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

107,54

+0,13

+0,12%

Dầu khí

USD/tấn

302,50

-4,75

-1,55%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

36.760,00

-990,00

-2,62%

Vàng New York

USD/ounce

1.721,30

-6,10

-0,35%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.012,00

+47,00

+0,79%

Bạc New York

USD/ounce

18,02

-0,05

-0,25%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,60

+0,80

+1,29%

Bạch kim

USD/ounce

841,40

-0,88

-0,10%

Palađi

USD/ounce

1.939,27

+2,28

+0,12%

Đồng New York

US cent/lb

248,80

-0,15

-0,06%

Đồng LME

USD/tấn

5.524,50

-4,00

-0,07%

Nhôm LME

USD/tấn

1.568,50

+21,50

+1,39%

Kẽm LME

USD/tấn

2.021,50

+2,00

+0,10%

Thiếc LME

USD/tấn

16.001,00

-8,00

-0,05%

Ngô

US cent/bushel

329,00

+5,00

+1,54%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

523,75

+11,75

+2,29%

Lúa mạch

US cent/bushel

345,50

+13,75

+4,14%

Gạo thô

USD/cwt

12,55

-0,04

-0,28%

Đậu tương

US cent/bushel

867,75

+10,25

+1,20%

Khô đậu tương

USD/tấn

289,80

+3,50

+1,22%

Dầu đậu tương

US cent/lb

27,82

-0,04

-0,14%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

463,60

+2,70

+0,59%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.377,00

-1,00

-0,04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

98,15

-0,95

-0,96%

Đường thô

US cent/lb

11,73

+0,11

+0,95%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

125,15

-3,05

-2,38%

Bông

US cent/lb

59,58

-0,15

-0,25%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

356,20

+8,10

+2,33%

Cao su TOCOM

JPY/kg

154,40

0,00

0,00%

Ethanol CME

USD/gallon

1,17

+0,04

+3,35%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg