Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động nhẹ do những thông tin trái chiều: dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới chậm lại và những đồn đoán về khả năng các nhà sản xuất dầu chủ chốt sẽ tiếp tục nỗ lực cắt giảm sản lượng...
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng nhẹ 4 US cent lên 58,57 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 43 US cent lên 54,93 USD/thùng.
Bộ trưởng Dầu mỏ Kuwait Khaled al-Fadhel cho biết nước này đã “tuân thủ 100%” thỏa thuận của OPEC+, đồng thời khẳng định Kuwait đã cắt giảm sản lượng nhiều hơn so với mức yêu cầu của thỏa thuận. Theo Bộ trưởng Khaled al-Fadhel, những lo ngại về sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã “bị phóng đại”, và nhu cầu dầu thô thế giới sẽ tăng lên trong nửa cuối năm 2019, qua đó giúp giảm lượng dầu dư thừa.
Trong khi đó, Saudi Arabia, nước sản xuất dầu đứng đầu trong OPEC, cho hay Tập đoàn dầu mỏ quốc doanh Saudi Aramco của nước này sẵn sàng triển khai kế hoạch chào bán cổ phiếu lên đầu ra công chúng (IPO) lớn nhất thế giới để hỗ trợ giá dầu. Chính phủ Saudi Arabia sẽ quyết định thời điểm tiến hành kế hoạch IPO dựa trên đánh giá về tình hình thị trường.
Theo đánh giá của giới phân tích, căng thẳng giữa Mỹ và Iran cũng đang góp phần củng cố giá dầu.
Ngược lại, trong cuộc khảo sát hàng quý được thực hiến với gần 1.200 chuyên gia tại hơn 110 quốc gia, Viện nghiên cứu kinh tế Ifo của Đức cho biết triển vọng kinh tế đã giảm xuống trên toàn cầu do tranh chấp thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ngày 9/8 cho hay, ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy đà tăng suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã khiến nhu cầu dầu toàn cầu tăng với tốc độ chậm nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Cơ quan có trụ sở tại Paris này đã hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu năm 2019 và 2020 xuống lần lượt 1,1 triệu thùng/ngày và 1,3 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng và giữ trên ngưỡng 1.500 USD/ounce giữa bối cảnh các thị trường chứng khoán sụt giảm do những lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu và tranh chấp thương mại Mỹ-Trung.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.505,92 USD/ounce, gần cao nhất hơn 6 năm ghi nhận trong tuần trước (1.510 USD/ounce); vàng giao sau cũng tăng 0,6% lên 1.517,20 USD/ounce.
Giá vàng đã tăng tới 4% trong tuần trước và tăng khoảng 17% kể từ đầu năm 2019 đến nay.
Thị trường chứng khoán Mỹ đã bị kéo xuống bởi nhóm cổ phiếu tài chính, giữa bối cảnh các nhà đầu tư quay lưng lại với các tài sản mang tính rủi ro do lo ngại cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung kéo dài sẽ đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái.
Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 9/8 nói rằng ông vẫn chưa sẵn sàng đi đến một thỏa thuận với Mỹ. Thậm chí, ông chủ Nhà Trắng còn đưa ra những tín hiệu có thể hoãn cuộc đàm phán tại Washinton với Trung Quốc vào tháng Chín tới. Trước đó, Tổng thống Trump tuyên bố sẽ áp mức thuế bổ sung 10% lên lượng hàng hóa trị giá 300 tỷ USD nhập khẩu từ Trung Quốc, bắt đầu từ ngày 1/9.
Các chuyên gia phân tích cho hay lãi suất nợ âm trên toàn cầu vẫn đang hỗ trợ cho kim loại quý này. Những tài sản không sinh lời như vàng thường được hưởng lợi khi lợi suất của những tài sản khác thấp.
Hiện các nhà đầu tư đang hướng sự chú ý đến hội nghị chuyên đề thường niên của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tại Jackson Hole, Wyoming trong tuần tới, trong đó các nhà đầu tư tìm kiếm dấu hiệu rõ hơn về lộ trình lãi suất của cơ quan này. Theo các nhà giao dịch, có tới 74% khả năng Fed sẽ hạ lãi suất khoảng 25 điểm cơ bản trong tháng Chín tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,8% lên 17,07 USD/ounce. Giá bạch kim giao ngay được giao dịch ở mức 858,88 USD/ounce, còn giá paladium tăng 0,9% lên 1.433,69 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá chì đã chạm mức cao trong hai tuần sau khi nhà máy Nyrstar của Bỉ cho biết họ đã ngừng sản xuất tại nhà máy luyện kim Port Pirie ở Úc, làm tăng lo ngại thiếu hụt kim loại chủ yếu được sử dụng trong pin xe hơi này. Giá chì tại Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) chạm mức cao nhất kể từ ngày 26/7 đạt 2.101,50 USD/tấn, nhưng đóng cửa thấp hơn 0,2% còn 2.065 USD.
Trong 5 tháng đầu năm, thiếu hụt chì toàn cầu đã tăng lên 42.000 tấn so với 34.000 tấn trong cùng kỳ năm ngoái, theo Nhóm nghiên cứu chì và kẽm quốc tế. Dự trữ chì tại các kho LME đã giảm 800 tấn xuống còn 82.475 tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên đã giảm xuống mức thấp nhất trong 2 tháng qua, phiên giảm thứ 8 liên tiếp, trong bối cảnh lo ngại về nhu cầu chậm lại khi tỉnh sản xuất thép hàng đầu của Trung Quốc Hà Bắc thắt chặt các yêu cầu thoát khí thải.
Giá quặng sắt giao tháng 1/2020 tại Sàn Đại Liên đã giảm 5,6% xuống còn 609,50 CNY(86,31 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 11/6, trước khi giảm 1,1% xuống còn 638,50 CNY.
Công ty phân tích dữ liệu quặng sắt và thép Tivlon Technologies cho biết, giá quặng sắt đã giảm một tháng nay và có thể sắp kết thúc.Tuần trước, giá quặng sắt kỳ hạn đã có mức giảm hàng tuần lớn nhất trong hơn 16 tháng do nhu cầu yếu.
Trong khi đó, giá thép tăng cao. Giá thép cây trên Sàn Thượng Hải, hết hạn vào tháng 10/2019, tăng 1,63% đạt 3.677 CNY/tấn.Giá thép cán nóng, được sử dụng trong ô tô và đồ gia dụng, tăng 2,19% lên 3.686 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô kỳ hạn tại Chicago đã giảm gần 6%, mức giảm lớn nhất trong hơn ba năm, sau khi Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ dự báo vụ thu hoạch lớn hơn dự kiến.
USDA dự báo vụ ngô 2019/20 ở mức 13,901 tỷ bushel, cao hơn mức 13,875 tỷ bushel dự kiến vào tháng trước. Diện tích trồng ngô đã tăng lên 90,0 triệu mẫu Anh, cao hơn 80,05 triệu mẫu trong cuộc thăm dò tháng Sáu. Giá ngô tại Chicago đóng cửa ở mức 3,92-3/4 cent/bushel, giảm 25 cent.
Giá cà phê Arabica tại Chicago đã giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng do vụ mùa lớn và đồng real của Brazil giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 5.
Giá cà phê arabica giao tháng 9/2019 đã giảm 3,8 cent, tương đương 3,9%, còn 93,50 cent/lb.Giá cà phê Robusta cùng kỳ hạn đã giảm 27 USD, tương đương 2,1%, xuống mức 1.269 USD/tấn.
Việt Nam đã xuất khẩu 140.442 tấn cà phê, tương đương 2,34 triệu bao 60 kg, trong tháng 7, giảm 1,4% so với tháng 6.
Giá cao su TSR 20 kỳ hạn đã tăng gần 10% tại Thượng Hải. Giá cao su giao tháng 2/2020 tăng 9,9% đạt 9.260 CNY(1.311,34 USD)/tấn vào lúc mở cửa phiên giao dịch sau đó giảm nhẹ còn 9.810 CNY vào cuối phiên giao dịch.
Trung Quốc muốn hợp đồng cao su TSR 20 trở thành giá tham khảo cao su quốc tế, Fang Xinghai, phó chủ tịch Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc, cho biết trong một bài phát biểu tại lễ ra mắt.
Sản xuất cao su tự nhiên toàn cầu đạt hơn 12 triệu tấn, trong đó 70% được sử dụng cho sản xuất lốp xe và hơn 80% các nhà sản xuất lốp sử dụng tiêu chuẩn cao su TSR 20, John Browning, giám đốc điều hành của công ty môi giới Bands Financial, cho biết.
Thị trường cao su Tocom đóng cửa nghỉ lễ.

 

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

54,93

+0,43

Dầu Brent

USD/thùng

58,57

+0,04

+0,07%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.650,00

+450,00

+1,28%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,11

0,00

0,00%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

166,44

-0,08

-0,05%

Dầu đốt

US cent/gallon

180,60

+0,02

+0,01%

Dầu khí

USD/tấn

555,50

0,00

0,00%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.680,00

+400,00

+0,75%

Vàng New York

USD/ounce

1.523,20

+6,00

+0,40%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.076,00

-38,00

-0,74%

Bạc New York

USD/ounce

17,06

-0,01

-0,06%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,90

-0,30

-0,52%

Bạch kim

USD/ounce

857,95

+0,04

+0,00%

Palađi

USD/ounce

1.431,25

-0,47

-0,03%

Đồng New York

US cent/lb

258,60

+0,10

+0,04%

Đồng LME

USD/tấn

5.742,00

-13,00

-0,23%

Nhôm LME

USD/tấn

1.770,00

-1,00

-0,06%

Kẽm LME

USD/tấn

2.278,00

+44,00

+1,97%

Thiếc LME

USD/tấn

16.825,00

-75,00

-0,44%

Ngô

US cent/bushel

392,75

-25,00

-5,98%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

476,25

-25,25

-5,03%

Lúa mạch

US cent/bushel

266,75

-9,00

-3,26%

Gạo thô

USD/cwt

11,57

+0,20

+1,76%

Đậu tương

US cent/bushel

879,25

-12,50

-1,40%

Khô đậu tương

USD/tấn

298,70

-5,00

-1,65%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,05

+0,10

+0,33%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

452,40

-1,70

-0,37%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.245,00

+3,00

+0,13%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,30

-3,40

-3,38%

Đường thô

US cent/lb

11,56

-0,30

-2,53%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,85

-3,45

-3,37%

Bông

US cent/lb

58,14

-0,76

-1,29%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

342,80

-6,10

-1,75%

Cao su TOCOM

JPY/kg

167,40

-1,70

-1,01%

Ethanol CME

USD/gallon

1,34

-0,11

-7,35%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters