Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau những nhận định cho rằng nhu cầu năng lượng sẽ được cải thiện.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,32 USD, chốt phiên 13/11 ở mức 57,12 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao tháng 1/2020 tăng 0,31 USD, lên 62,37 USD/thùng.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell nói rằng chính sách tiền tệ hiện nay của nước này có thể vẫn hợp lý nếu kinh tế Mỹ vẫn duy trì sự ổn định. Trong phiên điều trần trước Ủy ban Kinh tế chung của Quốc hội Mỹ ngày 13/11, ông nhấn mạnh chính sách tiền tệ không được hoạch định trước và Fed sẽ phản ứng một cách thích hợp nếu các diễn biến mới dẫn đến việc phải đánh giá lại triển vọng kinh tế.
Theo giới phân tích, những phát biểu của ông Powell về triển vọng kinh tế lại làm dấy lên hy vọng về sự gia tăng nhu cầu năng lượng.
Trong khi đó, những lo ngại liên quan đến sự không chắc chắn về thương mại và tình trạng dư thừa nguồn cung tiếp tục gây sức ép lên thị trường.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh được cho là sẽ thảo luận về việc có tiến hành cắt giảm sản lượng mạnh hơn hay không tại cuộc họp vào tuần tới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng sau 4 phiên liên tiếp giảm. Vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.462,03 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,7% lên 1.463,3 USD/ounce.
Theo nhà phân tích Jim Wyckoff của Kitco, giá kim loại quý này nhận được lực đẩy nhờ nhu cầu đối với tài sản an toàn và hoạt động mua vào sau khi những ức ép bán ra gần đây.
Sự không chắc chắn trong quan hệ giữa Mỹ và các đối tác thương mại chủ chốt và các cuộc điều trần luận tội công khai nhằm vào Tổng thống Donald Trump đang diễn ra đã khiến vàng hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư. Tuy vậy, đồng USD mạnh và các chỉ số chứng khoán vững đã hạn chế đà tăng của giá vàng.
Chỉ số USD, thước đo giá trị của đồng tiền này so với một rổ các đồng tiền mạnh khác, tăng 0,6% lên 98,37 USD ngay trước khi thị trường vàng chốt phiên. Khi đồng bạc xanh tăng, vàng được định giá theo đồng tiền này sẽ trở nên đắt hơn đối với các nhà đầu tư mua bằng các đồng tiền khác.
Trong khi đó, chỉ số Dow Jones tăng nhẹ khi các nhà đầu tư đánh giá về cuộc điều trần của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell.
Trong phiên điều trần trước Ủy ban Kinh tế chung của Quốc hội Mỹ ngày 13/11, ông Powell nói rằng chính sách tiền tệ hiện nay của Mỹ có thể vẫn hợp lý nếu kinh tế nước này vẫn duy trì sự ổn định.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng loạt giảm do lo ngại Mỹ nâng thuế đối với hàng Trung Quốc. Đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn LME giảm 0,6% xuống 5.835 USD/tấn. Kim loại này đã có xu hướng tăng từ đầu tháng 10, tuần qua đạt mức cao nhất hơn 3 tháng là 6.011 USD/tấn. Lượng đồng lưu kho tại LME giảm xuống mức thấp nhất 5 tháng là 224.425 tấn, còn lưu tại sàn Thượng Hải giảm 44% kể từ tháng 3, xuống 148.687 tấn.
Giá nhôm cũng giảm 0,7% xuống 1.765 USD/tấn, một phần bởi thông tin từ hãng nghiên cứu Antaike rằng tiêu thụ nhôm của Trung Quốc năm nay sẽ giảm lần đầu tiên trong vòng 30 năm do nhu cầu trong nước và xuất khẩu đều yếu đi.
Về các kim loại khác, giá nickel giảm 1,8% xuống 15.380 USD/tấn, kẽm giảm 2% xuống 2.422 USD/tấn, chì giảm 1,2% xuống 2.035 USD/tấn (thấp nhất kể từ 6/9) và thiếc giảm 2,1% xuống 16.000 USD/tấn sau khi có lúc xuống 15.970 USD/tấn – thấp nhất kể từ 1/10.
Giá sắt, thép tại Trung Quốc tiếp tục tăng trong phiên giao dịch vừa qua sau khi Thủ tướng nước này, ông Lý Khắc Cường, đảm bảo rằng các mục tiêu kinh tế năm nay sẽ đạt được. Thông tin từ cảng Hedland của Australia cho thấy xuất khẩu quặng sắt từ cảng này sang Trung Quốc giảm 0,7% trong tháng 10/2019 cũng góp phần đẩy giá tăng lên.
Trên sàn Đại Liên, quặng sắt tăng 2% lên 613 CNY (87,65 USD)/tấn vào đầu phiên giao dịch vừa qua, kết thúc phiên tăng 1,1% lên 608 CNY/tấn. Trên sàn Thượng Hải, thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 1% lên 3.442 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 0,9% lên 3.377 CNY/tấn, và thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 0,5% lên 14.360 CNY/tấn.
Than đá – một trong những nguyên liệu sản xuất thép cũng tăng giá, trong đó than cốc thêm 0,1% lên 1.713 CNY/tấn, còn than luyện cốc đạt 1.230 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường lên cao nhất gần 4 tháng do thời tiết gây lo ngại sẽ thiếu hụt nguồn cung trên toàn cầu. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 1,83% (0,26 US cent) lên 12,85 US cent/lb vào cuối phiên, trước đó có lúc đạt mức cao nhất kể từ đầu tháng 10 là 12,91 US cent. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 2,1% tương đương 6,8 USD lên 334,30 USD/tấn.
Sản lượng đường thế giới niên vụ 2019/20 dự báo sẽ giảm ở nhiều khu vực sản xuất, do đó khả năng sẽ thiếu hụt khoảng 6- 7 triệu tấn. Không chỉ ở Mỹ, sản lượng ở Đức dự báo cũng giảm. Hiệp hội Đường Đức đã hạ dự báo về sản lượng đường tinh luyện trong năm 2019/20 xuống 4,2 triệu tấn, từ mức 4,22 triệu tấn đưa ra trước đây.
Giá cacao tiếp tục tăng, trên sàn New York thêm 1% (35 USD) lên 2.655 USD/tấn vào cuối phiên (hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2020), sau khi có lúc đạt 2.664 USD/tấn – cao nhất kể từ cuối năm ngoái; trên sàn London hợp đồng cùng kỳ hạn cũng tăng 1% tương đương 21 GBP lên 1.955 GBP/tấn (có lúc đạt 1.963 GBP). Hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2019 đang giao dịch ở mức giá cao hơn 98 GBP so với kỳ hạn tháng 3 năm sau, cho thấy nguồn cung kỳ hạn gần có thể khan hiếm.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 2,3% tương đương 2,2% lên 111,15 US cent/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 2,9% lên 1.411 USD/tấn.
Brazil đã xuất khẩu 3,1 triệu bao cà phê xanh trong tháng 10/2019 (1 bao = 60 kg), giảm 14% so với cùng kỳ năm ngoái do sản lượng năm nay thấp hơn. Việt Nam đã xuất khẩu 87.497 tấn hay 1,46 triệu bao trong tháng 10, giảm 5,3% so với tháng 9.
Giá cao su trên 2 sàn giao dịch Tokyo và Thượng Hải đều tăng trong phiên vừa qua. Cụ thể, hợp đồng kỳ hạn tháng 4/2020 trên sàn TOCOM tăng 0,2 JPY (0.0018 USD) lên 180,2 JPY/kg, hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 70 CNY (10,01 USD) lên 12.035 CNY/tấn.
Liên quan tới mặt hàng này, Thái Lan đang nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu cao su sau khi kết thúc thời hạn 4 tháng kiềm chế, nhằm tăng thu nhập cho người trồng loại cây này. Bộ trưởng Thương mại Thái Lan hôm qua cho biết nước ông đang thương lượng với 2 khách hàng tư nhân ở Trung Quốc đại lục và Hongkong Trung Quốc để bán 260.480 tấn cao su với mục đích thu được trên 13 tỷ baht (428 triệu USD). Ông này cho biết thêm, Thái Lan mới đây đã bán 100.000 tấn cao su, trị giá 7,5 tỷ baht, cho Ấn Độ, và ông sẽ tới Thổ Nhĩ Kỳ và Đức để đàm phán về các hợp đồng mới.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,12

+0,32

+0,56%

Dầu Brent

USD/thùng

62,54

+0,48

+0,77%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.820,00

+260,00

+0,67%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,60

-0,02

-0,80%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

163,65

+2,21

+1,37%

Dầu đốt

US cent/gallon

191,25

+1,49

+0,79%

Dầu khí

USD/tấn

578,75

+3,75

+0,65%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.880,00

+130,00

+0,23%

Vàng New York

USD/ounce

1.463,30

+9,60

+0,66%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.109,00

-12,00

-0,23%

Bạc New York

USD/ounce

16,91

+0,22

+1,32%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,50

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

875,00

-0,61

-0,07%

Palađi

USD/ounce

1.711,27

-0,13

-0,01%

Đồng New York

US cent/lb

263,95

-0,60

-0,23%

Đồng LME

USD/tấn

5.869,00

-9,50

-0,16%

Nhôm LME

USD/tấn

1.778,00

-1,00

-0,06%

Kẽm LME

USD/tấn

2.472,00

-24,50

-0,98%

Thiếc LME

USD/tấn

16.340,00

-235,00

-1,42%

Ngô

US cent/bushel

375,25

-2,50

-0,66%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

509,00

-8,00

-1,55%

Lúa mạch

US cent/bushel

305,50

-2,25

-0,73%

Gạo thô

USD/cwt

11,92

-0,04

-0,38%

Đậu tương

US cent/bushel

915,25

-1,75

-0,19%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,10

+1,80

+0,60%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,53

-0,50

-1,61%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

461,80

-0,30

-0,06%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.655,00

+35,00

+1,34%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

111,15

+2,25

+2,07%

Đường thô

US cent/lb

12,85

+0,26

+2,07%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,10

+1,55

+1,57%

Bông

US cent/lb

66,05

-0,45

-0,68%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

387,90

+3,10

+0,81%

Cao su TOCOM

JPY/kg

180,60

+0,40

+0,22%

Ethanol CME

USD/gallon

1,41

-0,02

-1,47%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg