Trên thị trường năng lượng, giá dầu duy trì ở mức cao nhất trong vòng 2 năm giữa
bối cảnh tình hình bất ổn xảy ra tại một số nước ở khu vực Trung Đông và các nhà quản lý quỹ tăng cường đầu tư vào mặt hàng dầu.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent giao tháng 1/2018 giảm 36 US cent (tương đương 0,6%) xuống còn 63,16 USD/thùng trong khi giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 12/2017 tăng 2 US cent lên 56,76 USD/thùng.
Tuần trước, giá dầu Brent tăng lên 64,65 USD/thùng, mức cao nhất kể từ tháng 6/2015, còn giá dầu WTI tăng lên 57,92 USD/thùng, mức cao nhất kê từ tháng 7/2015.
Tình hình bất ổn ở một số nước tại khu vực Trung Đông đã hỗ trợ thị trường dầu, bất chấp những lo ngại cho rằng sản lượng dầu có thể tiếp tục tăng. Theo chuyên gia John Kilduff Partner của Again Capital, nguồn cung dầu thế giới có thể gia tăng do Saudi Arabia có thể sản xuất hơn 10 triệu thùng dầu/ngày và đây được coi là "rủi ro" mới đối với thị trường dầu mỏ.
Theo các nhà giao dịch dầu mỏ, tình hình căng thẳng ở khu vực Trung Đông đã làm dấy lên quan ngại về nguy cơ gián đoạn nguồn cung. Một chiến dịch chống tham nhũng do Thái tử Mohammed bin Salman khởi xướng trong tháng 11/2017 là một trong những nhân tố chính làm gia tăng những lo ngại về tình hình ổn định chính trị tại Saudi Arabia, quốc gia sản xuất dầu lớn nhất Trung Đông.
Trong khi đó, những vấn đề khác cũng gây lo ngại cho sự bất ổn tại khu vực Trung Đông giàu dầu mỏ là cuộc chiến tại Yemen và căng thẳng gia tăng giữa Saudi Arabia và Iran cũng khiến giới đầu tư lo ngại.
Ngoài ra, các thương nhân cho hay không rõ liệu một trận động đất mạnh 7,3 độ richter tại vùng biên giới giữa Iran và Iraq trong ngày 12/11 có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất dầu ở khu vực này hay không.
Theo Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), có nhiều dấu hiệu cho thấy cán cân cung-cầu trên thị trường dầu đang tiến gần đến trạng thái "cân bằng lành mạnh" sau nhiều năm giá dầu ở mức thấp.
Sau khi rơi từ mức đỉnh hơn 100 USD/thùng hồi giữa năm 2014 xuống chưa tới 30 USD/thùng, giá dầu hiện đang giao dịch quanh mốc 55 USD/thùng.
Trong một phát biểu mới đây, Bộ trưởng Năng lượng của Các Tiểu Vương quốc Arập Thống nhất (UAE) Suheil al-Mazrouei cho biết rằng các nước sản xuất dầu được kỳ vọng sẽ nhất trí gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng, tuy nhiên thời gian gia hạn vẫn đang được thảo luận.
Trong báo cáo vừa công bố, OPEC đã nâng dự báo về tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới trong năm 2017 và 2018. Theo OPEC, nhu cầu dầu thế giới sẽ tăng 1,53 triệu thùng/ngày lên mức trung bình 96,94 triệu thùng trong năm nay.
Trước đó, OPEC dự kiến mức tăng nhu cầu trong năm 2017 là 1,45 triệu thùng/ngày. Năm 2018, tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới dự kiến ở mức khoảng 1,51 triệu thùng/ngày, tăng 130.000 thùng/ngày so với con số dự báo trước đó.
Tuy nhiên, OPEC đã hạ dự báo tăng trưởng nguồn cung dầu thế giới. Trong năm nay, ước tính, các nước ngoài OPEC sẽ bơm thêm 650.000 thùng/ngày đưa sản lượng trung bình lên 57,67 triệu thùng/ngày, thấp hơn 20.000 thùng/ngày so với con số dự báo mà OPEC đưa ra trước đó. Trong khi đó, sản lượng dầu của OPEC được dự báo đạt trung bình 33 triệu thùng/ngày trong năm nay.
Thêm một tín hiệu tích cực khác cho thị trường là các kho dự trữ thương mại của các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đang có xu hướng sụt giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng đảo chiều đi lên do đồng USD không mấy biến động và sự bất ổn liên quan đến kế hoạch cải cách thuế của Mỹ làm dấy lên tâm lý lo ngại rủi ro.
Giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.279 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 12/2017 tăng 4,7 USD, hay 0,4% và khép phiên với 1.278,90 USD/ounce.
Sau khi đi lên lúc đầu phiên và hỗ trợ cho đồng USD, lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ sau đó đã thu hẹp đà tăng. Các thị trường chứng khoán cũng giảm điểm trước “số phận” không chắc chắn của kế hoạch cắt giảm thuế của Mỹ.
Tuy nhiên, đà tăng của giá vàng trong phiên này bị giới hạn, trong bối cảnh giới đầu tư đang chờ đợi thêm nhiều manh mối về đường hướng lãi suất của Mỹ.
Giá vàng khá nhạy cảm với sự gia tăng lãi suất của Mỹ, do lãi suất đi lên sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng đồng thời làm đồng USD tăng giá khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Cùng phiên, giá bạc tăng 0,9% lên 17,05 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 0,8% và được giao dịch ở mức 933,40 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô vượt 15 US cent lên mức cao nhất 5 tháng rưỡi do hoạt động mua đường mạnh khi sản lượng ethanol của Brazil tiếp tục tăng.
Đường thô giao tháng 3 giá tăng 0,17 US cent tương đương 1,1% lên 15,13 US cent/lb, trong phiên có lúc giá đạt 15,18 US cent, cao nhất kể từ 30/5. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giá tăng 4,7 USD tương đương 1,2% lên 2.201 USD/tấn.
Cà phê biến động trái chiều trong phiên vừa qua. Tại New York, arabica giao tháng 3 giảm 0,15 US cent tương đương 0,11% xuống 1,3075 USD8/lb, trong khi robusta giao tháng 1 tăng 8 USD tương đương 0,4% lên 1.824 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
11/11
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
56,76
|
+0,02
|
+0,09%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
63,16
|
-0,56
|
-0,6%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
43.020,00
|
0,00
|
0,00%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,20
|
-0,01
|
-0,37%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
180,73
|
-0,51
|
-0,28%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
193,96
|
+0,47
|
+0,24%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
566,00
|
-3,00
|
-0,53%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
58.370,00
|
-70,00
|
-0,12%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.279,10
|
+4,90
|
+0,38%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.649,00
|
+5,00
|
+0,11%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,01
|
+0,14
|
+0,82%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,70
|
-0,40
|
-0,64%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
934,83
|
+5,38
|
+0,58%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
995,24
|
-1,19
|
-0,12%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
312,35
|
+4,75
|
+1,54%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.786,00
|
-22,00
|
-0,32%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.101,00
|
+8,00
|
+0,38%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.219,00
|
+43,00
|
+1,35%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.425,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
341,50
|
-2,00
|
-0,58%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
423,50
|
-8,00
|
-1,85%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
273,00
|
+1,00
|
+0,37%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,39
|
-0,03
|
-0,26%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
985,25
|
-1,75
|
-0,18%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
317,40
|
+0,80
|
+0,25%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,64
|
-0,32
|
-0,92%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
515,10
|
-0,40
|
-0,08%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.212,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
130,90
|
0,00
|
0,00%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
15,10
|
+0,14
|
+0,94%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
164,20
|
+1,60
|
+0,98%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,53
|
+0,39
|
+0,56%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
456,90
|
-2,70
|
-0,59%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
202,30
|
+0,40
|
+0,20%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,45
|
-0,01
|
-0,41%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg